Tài liệu về môi trường

doc 46 trang Mạnh Hào 03/10/2024 850
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu về môi trường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu về môi trường

Tài liệu về môi trường
T­ liÖu vÒ m«i tr­êng
Thứ Sáu, 28/03/2008 - 11:03 AM
“Sµi gßn « nhiÔm qu¸”
Không thể tưởng tượng nổi đây là một con đường của Sài Gòn. (Ảnh: Tùng Nguyên)
(Dân trí) - Ai đã từng đi qua TP Vũng Tàu, Đà Lạt, Cần Thơ rồi mới ghé Sài Gòn đều không thể không thảng thốt: “Sài Gòn ô nhiễm quá!”. Đó cũng là kết luận của một nghiên cứu vừa được công bố.
Những cung đường bụi bẩn 
Từ ngày Công ty Cấp nước Sài Gòn cho lắp ống cấp nước trên đường Trần Xuân Soạn, người dân ven đường không dám ăn cơm khi chưa đóng chặt cửa vì quá bụi; trời mưa không ai dám ra đường vì quá lầy. 
Đường Bến Chương Dương từ ngày công trường thi công Đại lộ Đông Tây đi qua, ai muốn phơi quần áo phải phơi trong nhà, nếu đem ra ban công phơi thì chiều lại phải đem vào giặt lại. 
Đường Nguyễn Hữu Cảnh từ lúc các cao ốc hai bên đường triển khai xây dựng, rồi cầu Thủ Thiêm thi công, hầm chui Văn Thánh II sửa chữa thì người đi qua đều có vài đặc điểm chung: đang có việc khẩn không thể đi đường khác, không có trẻ em đi cùng, còn trẻ và khỏe mạnh... Người bệnh mà đi qua đoạn đường này chắc không chịu nổi.
Và trên hàng trăm con đường đang bị rào để thi công, những con đường ngay trung tâm TP chật hẹp nhưng hai bên đường có cao ốc đang xây dựng người dân TP đều cố chen lấn nhau vượt qua cho nhanh vì khó thở. Lúc này bảo mọi người nên giữ phép lịch sự khi tham gia giao thông cũng khó, vì chẳng ai muốn đứng lâu giữa không khí ken đặc bụi đó.
Những cửa ngõ kinh hoàng 
TPHCM có 3 cửa ngõ chính: quốc lộ 22 dẫn về Tây Ninh, xa lộ Hà Nội mở hướng về Đông Nam bộ và các tỉnh phía Bắc, quốc lộ 1A dẫn đến miền Tây. Cả 3 đều đáng gọi là khủng khiếp. 
Ai chưa từng đi qua xa lộ Hà Nội có thể giật mình khi đến cầu Rạch Chiếc, cây cầu nổi tiếng đang “rung rinh”. Không phải vì sợ cầu sập mà vì bụi. Đất rơi từ xe container của Công ty Xi măng Hà Tiên gần đó, từ các xe tải chở đất bị rơi vãi khi qua cầu bị xóc, từ xe trong cảng container Phước Long đi ra tạo thành một “cứ điểm bụi” quanh chân cầu Rạch Chiếc. Ai đi qua đây cũng phải nhắm mắt nhắm mũi lao cho nhanh. 
Còn ai muốn về TPHCM qua quốc lộ 22 thì đụng phải ngã tư An Sương. Trong 6 điểm quan trắc của Chi cục Bảo vệ môi trường TP thì điểm quan trắc tại đây đứng đầu bảng danh sách ô nhiễm. 
Nhưng có lẽ vẫn không bằng đoạn quốc lộ 1A trên địa phận huyện Bình Chánh, bắt đầu từ ngã tư An Lạc về miền Tây. Nếu ở đây có trạm quan trắc thì ngã tư An Sương phải nhường lại vị trí đầu bảng. Hai con đường mới mở chạy song song quốc lộ được nâng cao hơn mặt quốc lộ hiện hữu 2m, nhưng hiện tại nó chỉ là hai con đường đắp bằng đất cát dài và cao như hai con đê. Cứ mỗi đợt gió thổi qua, “mặt đê” tung đầy cát vào mặt người. 
Người nghèo và trẻ em lãnh đủ 
Tại hội thảo công bố kết quả nghiên cứu Ô nhiễm không khí, đói nghèo và tác động sức khỏe ở TPHCM do Sở Y tế TP và Viện Nghiên cứu sức khoẻ Mỹ (HEI) thực hiện, ban tổ chức cho biết: “81% các chỉ số chất lượng không khí đo đạc tại TPHCM là vượt mức cho phép, trong đó bụi là tác nhân nguy hiểm nhất. Các chất ô nhiễm có khả năng gây ung thư như benzen, toluen và xylen đều đang ở mức cao và có xu hướng tăng thêm”. 
Phó Chủ tịch UBNDTP Nguyễn Thành Tài cũng phải thừa nhận: “TP đang đối mặt với ô nhiễm không khí trầm trọng, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người dân, nhất là trẻ em”. 
Còn TS Đỗ Văn Dũng (ĐH Y Dược TPHCM) cho biết: Tỷ lệ viêm phổi và viêm phế quản ở trẻ em gia tăng hàng năm; trẻ càng nhỏ, tỷ lệ viêm đường hô hấp càng cao. 
Bà Sumi Mehta, một thành viên nhóm nghiên cứu, phát biểu: Không khí ô nhiễm sẽ tác động đến người nghèo nhiều hơn. Do chế độ dinh dưỡng thiếu thốn nên khả năng chịu đựng môi trường ô nhiễm của người nghèo thấp hơn người giàu, tỷ lệ mắc bệnh cao hơn và điều kiện chăm sóc sức khỏe, điều trị kém hơn. 
Bão ngày càng hung bạo 
11:25:25 19/11/2007
Mùa hè 2004 mang đến một lời cảnh tỉnh: bốn cơn bão chưa từng thấy tàn phá Florida, và 10 cơn bão nhiệt đới đổ bộ vào Nhật Bản-lớn hơn bốn lần những ghi nhận trước đây ở đất nước này. Tiếp theo, năm 2005 đánh dấu sự ghi nhận đột phá với sự hoành hành điên khùng của hai cơn bão lịch sử kinh hoàng Katrina và Rita. Nhưng vào năm 2006, trong khi giá bảo hiểm ở miền Nam nước Mỹ tăng vọt thì số lượng những cơn bão xuất hiện trên Bắc Đại Tây Dương đột nhiên giảm một cách thất thường dưới mức dự đoán. Các nhà khoa học đã đưa ra những lời giải thích đối nghịch cho sự tăng lên của những cơn bão nhiệt đới, và đặc biệt, những lời giải thích đó tiết lộ có sự tham gia của quá trình ấm lên đột ngột nhiệt độ Trái đất. Nếu quả thực quá trình ấm lên toàn cầu đóng một vai trò nào đó trong việc tăng số lượng của những cơn bão thì tại sao mùa bão năm 2006 lại khá “yên lặng”?
Những phân tích chi tiết và cẩn thận các mô hình thời tiết đang mang về những lời giải nhất quán cho cả sự tăng bất thường năm 2004 và 2005 cũng như “sự yên lặng” kỳ lạ của những cơn bão vào 2006. Nhưng thật không may, những lời giải đó lại như một điềm báo cho những phiền muộn về mặt khí tượng học sẽ đeo đẳng loài người suốt cả một tương lai dài phía trước.
Công thức “nấu” thành bão
Bão Katrina nhìn từ vệ tinh.
Một cơn bão được hình thành bởi một quá trình rối loạn khí quyển rồi tiếp đó phát triển thành một hệ thống có tổ chức của những xoáy lốc kèm theo sấm chớp. Khi hệ thống này bắt đầu xoáy kèm theo sức gió vượt quá quá 39 dặm/giờ thì lúc đó cơn bão được đặt tên. Còn khi tốc độ gió vượt quá 74 dặm/giờ, hệ thống được gọi là những xoáy lốc nhiệt đới. Thuật ngữ “huricance” dùng để chỉ những cơn bão như thế xuất hiện trên Đại Tây Dương và Đông bắc Thái Bình Dương. Còn “typhoon” sử dụng cho những cơn bão xuất hiện ở vùng Tây bắc Thái Bình Dương, “cyclone” ám chỉ những cơn bão xuất hiện trong khu vực Ấn Độ Dương.
Katrina (2005) là cơn bão gây thiệt hại nhất trong lịch sử với 100 tỷ USD.
Bhola (1970) là cơn bão gây thiệt hại về người nhiều nhất: giết chết 300,000 người.
Camille (1969) là cơn bão mạnh nhất đổ bộ vào đất liền với tốc độ gió cực đại 190 dặm/giờ.
John (1994) là cơn bão kéo dài nhất trong lịch sử, hoành hành trên Thái Bình Dương suốt 31 ngày.
Tip (1979) là cơn bão trải rộng nhất (2,200 km), xuất hiện trên Thái Bình Dương.
Để tiên liệu quá trình ấm lên toàn cầu ảnh hưởng đến số lượng, kích thước và cường độ (tốc độ gió) của những cơn bão, đầu tiên các nhà khoa học cần phải biết “công thức” để “nấu” thành một cơn bão. Những năm về trước, các nhà khí tượng học đã đưa ra nhiều mô hình chi tiết mô tả cách thức những cơn bão hình thành. Các mô hình chỉ ra rằng, để hình thành những cơn bão yêu cầu phải có dòng nước ấm, và hầu hết xảy ra ở những vùng nhiệt đới nơi ánh sáng mặt trời chiếu vuông góc xuống mặt đất. Đại dương sẽ hấp thụ hầu hết năng lượng đến, sau đó lại tỏa lượng nhiệt “dư thừa” chủ yếu thông qua bốc hơi. Khi hơi nước đọng lại thành mưa, năng lượng lại được giải phóng một cách từ từ, và như vậy, góp phần “đốt nóng” bầu khí quyển. Vào mùa đông, những cơn gió mang lượng nhiệt này tới những vùng vĩ độ cao, nơi nhiệt có thể phát xạ trở lại không gian vũ trụ. Nhưng vào mùa hè, năng lượng chủ yếu tăng lên thông qua đối lưu, tới những nơi có vĩ độ cao trong dải nhiệt đới và tạo ra một loạt hiện tượng từ những đám mây tích đến những cơn giông mang theo sấm chớp. Trong những hoàn cảnh thích hợp, sự tích tụ những cơn giông kèm sấm chớp có thể tự tổ chức thành một cơn bão. Và cơn bão này sẽ “bơm” một lượng lớn nhiệt ra khỏi đại dương.
Ở Bắc Thái Bình Dương, những sự rối loạn khí quyển “trượt” khỏi bờ biển phía tây vùng trung tâm châu Phi, nơi chúng thường xuyên được hình thành do tương phản nhiệt độ giữa sa mạc trên lục địa với những vùng núi chạy dọc bờ biển bao phủ bởi rừng. Ngoài ra, một số điều kiện khác cũng cần thiết bao gồm: nhiệt độ bề mặt biển lớn hơn 26oC, một lượng lớn hơi nước bốc hơi, áp suất tại bề mặt đại dương thấp, những luồng gió nhẹ dịch chuyển giữa những vị độ thấp và vĩ độ cao. Cần lưu ý rằng sự dịch chuyển của những cơn gió mạnh có khuynh hướng xé tan những cơn lốc mới hình thành ra từng phần.
Đại dương ấm hơn, cơn bão trở nên hung bạo 	
 Nhiệt độ nước biển bề mặt đóng vai trò then chốt cho quá trình hình thành những cơn bão. Các nhà khoa học đang tự hỏi nhiệt độ bề mặt nước biển đã thay đổi xuyên suốt những thập kỷ quá khứ như thế nào cũng như số lượng, kích thước và cường độ của những cơn bão đã thay đổi cùng với chúng. Nếu vậy, thì liệu quá trình ấm lên toàn cầu, mà chủ yếu gây bởi các hoạt động của con người, có phải là nguyên nhân chủ yếu không? Và những điều kiện duy nhất làm cho 2004 và 2005 ghi nhận với sự tăng bất thường của những cơn bão là gì? Từ lâu các nhà khoa học đã biết rằng khí nhà kính (như cacbondioxide, sản phẩm của việc đốt cháy nhiên liệu hóa thạch) làm ấm hành tinh của chúng ta và tăng nhiệt độ bề mặt nước biển cũng như sản phẩm của hơi nước, đẩy mạnh hoạt động đối lưu hình thành nên những cơn bão. Câu hỏi sau năm 2005 là, nhiệt độ bề mặt nước biển thực tế đã bắt đầu tăng và ảnh hưởng của nó tới sự ấm lên toàn cầu tới mức độ nào?
Các nhà khí hậu học không chắc chắn về số lượng những cơn bão đã xảy ra trên toàn thế giới kể từ năm 1970, khi những quan sát vệ tinh trở nên thường xuyên hơn. Mặt khác họ cũng coi những ghi nhận ở vùng Bắc Đại Tây Dương dải nhiệt đới kể từ năm 1944 là khá tin cậy, đây cũng là thời điểm những quan sát cẩn thận từ những trạm không gian về các cơn bão nhiệt đới được bắt đầu. Nhìn ngược lại lịch sử có thể nhận thấy rằng, số những cơn bão được đặt tên ở Bắc Đại Tây Dương đã tăng kể từ 1944, và đáng chú ý, sự tăng này xảy ra đồng thời với quá trình tăng lên của nhiệt độ bề mặt nước biển trong vùng vĩ độ từ 10 đến 20 độ Bắc. Dải nước nhiệt đới ở phía bắc xích đạo, kéo dài từ châu Phi tới trung tâm châu Mỹ, là vùng tới hạn cho việc hình thành những cơn bão.
Một số nhà khoa học than phiền rằng, sự tăng nhiệt độ bề mặt nước biển ở Bắc Đại Tây Dương kể từ năm 1944 chỉ đơn giản phản ánh cái gọi là sự dao động đa thập kỷ Đại Tây Dương AMO (Atlantic multidecadal oscillation). Hiện tượng này là một chu trình tự nhiên, trong đó, nhiệt độ nước biển Bắc Đại Tây Dương vẫn còn tương đối thấp trong vòng vài thập kỷ, và sau đó, chuyển tới thập kỷ của pha ấm hơn, rồi tiếp theo lại xuống thấp trở lại (sự khác nhau nhiệt độ cực đại là 0.5oC). Khoảng thời gian từ năm 1970 tới đầu những năm 1990, nhiệt độ bề mặt nước biển ở Bắc Đại Tây Dương tương đối thấp. Nhưng sau đó AMO đã trở lại mang theo những điều kiện  làm cho bề mặt nước biển ấm hơn, và do vậy càng có nhiều cơn bão được hình thành hơn so với pha lạnh. Những mô hình máy tính lại chỉ ra rằng, nếu chỉ có chu trình AMO không thể giải thích được xu hướng tăng lên nhanh chóng số lượng những cơn bão xuất hiện kể từ năm 1995, hay những gì đã xảy ra trong năm 2005 và 2006.
Do hoạt động của những cơn bão nhiệt đới phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ bề mặt nước biển, chúng ta có thể kết luận rằng, quá trình ấm lên toàn cầu là nguyên nhân làm cho những cơn bão trở nên hung bạo hơn. Một nghiên cứu thực hiện bởi nhà khoa học Kerry Emanuel xuất bản trên Science và Nature dựa trên những bằng chứng số liệu quan sát trực tiếp chỉ ra rằng, sự tăng lên đáng kể cường độ của những cơn bão trong khoảng thời gian từ 1970 có liên hệ chặt chẽ tới sự tăng nhiệt độ bề mặt nước biển. Những nỗ lực của nhiều chuyên gia khác tuy có hiệu chỉnh lại mối đồng liên hệ này nhưng vẫn không làm thay đổi kết luận chung. Vào tháng 9 năm 2005, nhà khoa học Peter Webster ở Học viện Công nghệ Georgia và cộng sự xuất bản một bài báo trên Science, trong đó cũng đã kết luận rằng, số lượng những cơn bão tăng lên như dự đoán trùng với quá trình tăng lên của nhiệt độ bề mặt nước biển được quan sát.
Bàn tay con người...
Những mô hình khí hậu cố gắng tái tạo những quá trình sinh học, hóa học và vật lý học có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các diễn biến phức tạp của thời tiết. Sau nhiều năm làm việc cật lực, các nhà khoa học ở Trung tâm Nghiên cứu Khí quyển Quốc gia  (NCAR) ở Boulder, Colorado, đã đưa ra những mô hình khí hậu toàn cầu có thể tái tạo thành công nhiệt độ nước biển bề mặt và không khí thực được ghi nhận trên toàn thế giới trong suốt hơn một thế kỷ qua. Những mô phỏng đề cập đến những thay đổi về thành phần hóa học, sự phát xạ năng lượng mặt trời ngược trở lại không gian, và những tác động của quá trình phun trào núi lửa có thể chặn đủ lượng bức xạ của Mặt trời làm lạnh hành tinh của chúng ta trong khoảng thời gian từ một đến hai năm. 
Sử dụng những mô hình thời tiết, các nhà khoa học có thể phân lập những thay đổi gây bởi con người, chẳng hạn như khói thải và ô nhiễm phóng thích vào bầu khí quyển và từ đó đánh giá ước lượng hậu quả của những tác động đó. Làm như vậy rõ ràng chỉ ra rằng, sự ấm lên của Đại Tây Dương đã xảy ra và đều liên quan tới quá trình ấm lên của khí quyển do các hoạt động của con người. Một nghiên cứu gần đây, thực hiện bởi nhà khí hậu học Ben Santer ở Phòng thí nghiệm Quốc gia Lawrence Livermore và các đồng sự kết luận rằng, hiện tượng ấm lên xảy ra ở cả Thái Bình Dương và Đại Tây Dương dải nhiệt đới là do khí nhà kính phóng thích bởi con người. Nghiên cứu này đã ước lượng nhiệt độ bề mặt nước biển toàn cầu tăng lên khoảng 0.6oC, chủ yếu bắt đầu từ những năm 1970. Mặc dù con số này có vẻ như khá nhỏ, không ảnh hưởng nhiều đối với sức mạnh của những cơn bão. Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy, khi cơn bão Katrina quét dọc Vịnh Mexico, một sự tăng hay giảm nhiệt độ bề mặt nước biển chỉ khoảng một độ nhưng cũng đủ làm thay đổi cường độ của cơn bão. 
Một cơn bão lớn có nhiều tác động hơn hai cơn bão nhỏ. Khi một cơn bão mạnh đi qua, nó sẽ để lại một đại dương lạnh hơn phía sau, làm giảm khả năng xuất hiện nhiều cơn bão, chí ít là ngay sau đó.
Sự yên lặng bất thường
Nỗi kinh hoàng trốn chạy thảm họa
Trong khi mùa bão 2004 và 2005 hoành hành dữ dội thì mùa bão 2006 lại “yên tĩnh” một cách đáng ngạc nhiên? Trong suốt mùa hè 2005, nhiệt độ nước biển bề mặt ở Bắc Đại Tây Dương dải nhiệt đới (dải từ 10 đến 20 độ Bắc) ở mức ghi nhận cao, cao hơn 0.92oC so với năm từ 1901 đến 1970. Vậy có điều gì sai ở đây? Yếu tố chính thêm vào chính là một “lực” hoạt động trong suốt mùa đông và mùa thu trước: El Nino. Hiện tượng này thực chất là sự ấm lên trong Thái Bình Dương ở dải nhiệt đới, và sẽ tăng lên khi một sự hợp lại xảy ra giữa những dòng hải dương và khí quyển.
Mùa đông ở Bắc bán cầu từ năm 2004 tới 2005, bầu trời chói chang ánh nắng và liên tục mang theo những cơn gió nhẹ ở những vùng Đại Tây Dương dải nhiệt đới, điều này có nghĩa quá trình lạnh đi do bốc hơi sẽ giảm, cho phép đại dương có thể ấm lên khoảng 0.2oC. Nhưng El Nino  yếu dần đi vào mùa hè, cực tiểu hóa những cơn gió trên Đại Tây Dương, tạo điều kiện thích hợp cho việc hình thành những cơn bão. Trong 2005, El Nino làm một số lượng lớn những cơn bão hình thành.
Toàn bộ New Orleans ngập chìm trong 
nước sau thảm họa cơn bão Katrina
Ngược lại, La Nina-đánh dấu sự lạnh đi của Thái Bình Dương dải nhiệt đới-xảy ra trong suốt mùa đông từ 2005 đến 2006, tăng cường mạnh mẽ cường độ của những cơn gió mậu dịch ở Bắc Đại Tây Dương và mang nhiệt ra khỏi đại dương. Sự kiện này đã làm cho nhiệt độ bề mặt nước biển hơi thấp hơn hoặc gần bằng với cấp độ trong mùa bão 2006. Hơn nữa, trong suốt mùa hè 2006, El Nino bắt đầu hình thành, góp phần tăng cường những cơn gió di chuyển ở Đại Tây Dương. Nhiệt độ bề mặt nước biển xuống thấp hơn cộng với sự di chuyển của những cơn gió theo hướng bất lợi đã làm thay đổi những điều kiện ở Đại Tây Dương trong dải nhiệt đới, mà từ đó chúng ta đã chứng kiến một sự thay đổi từ mùa bão đầy biến động 2005 tới một mùa bão khá yên tĩnh 2006.
Dù gì đi chăng nữa số lượng những cơn bão xuất hiện trong năm có ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những hiện tượng thời tiết như El Nino và La Nina.
Kéo theo nhiều lụt lội
Ở NCAR, các nhà khoa học sử dụng mô hình gọi là Dự báo và Nghiên cứu thời tiết trong đó phân mảng các số liệu khí hậu thực thế giới thành một mạng lưới với mỗi ô có độ phân giải cao là 4 kilometers. Những mô phỏng toàn cầu tiến hành bởi Cơ quan Thời tiết Quốc gia (NWS) có độ phân giải là 35 kilometer, và những mô hình vùng của họ có độ phân giải từ 12 đến 8 kilometer. Việc tính toán với độ phân giải 4 kilometer đòi phải được trang bi một máy tính cực mạnh và chạy chương trình trong thời gian dài hơn. Những nhà dự báo thời tiết phải tự giới hạn tới một mạng lưới 8 kilometer để có thể dự đoán một cách đúng lúc. 
Thực tế, các nhà khoa học đã tái tạo các đặc điểm của những cơn bão thực rất tốt khi những dữ liệu quan sát được đưa vào mô hình. Khi nhập dữ liệu về nhiệt độ bề mặt nước biển trong quãng thời gian cơn bão Katrina di chuyển trên Vịnh Mexico vào máy tính, thì đường đi của cơn bão được thiết lập trên mô hình khá trùng với đường đi của cơn bão thực.
Với những kết quả như vậy, các nhà khoa học cũng đã cố gắng làm rõ nhiệt độ bề mặt nước biển tăng lên ảnh hưởng đến lượng mưa ở những cơn bão như thế nào. Đối với trường hợp bão Katrina, khi nhiệt độ bề mặt nước biển tăng 1oC đã làm tăng lượng hơi nước bốc hơi xung quanh lên 7%. Sự tăng những cơn gió cực đại cũng sẽ chuyển nhiều hơi ẩm hơn vào trong những cơn bão và đẩy mạnh quá trình bốc hơi. Cùng với những tác động của sự kiện tăng 1oC trong nhiệt độ bề mặt nước biển đã làm tăng lượng mưa lên khoảng 19% trong vòng 400 km của mắt bão.
Sự kiện ấm lên toàn cầu làm tăng lượng mưa của những cơn bão. Việc nhiệt độ bề mặt nước biển tăng lên 0.6oC đã xảy ra từ năm 1970 từ việc ấm lên toàn cầu có nghĩa là sự thay đổi khí hậu đã làm tăng hơi nước bốc hơi trong khí quyển lên 4% trong 37 năm qua. Phù hợp với việc tìm kiếm này, những thiết bị sóng ngắn trên vệ tinh đã quan sát được một sự tăng lên 2% chỉ kể từ năm 1988. Cần nhắc lại rằng, trong một cơn bão, lượng hơi nước đưa vào ngưng tụ lại, giữ lại lượng ẩn nhiệt. Lượng hơi nước tăng lên 4% sẽ dẫn đến lượng mưa tăng lên 8%. Lượng mưa tăng cũng đồng nghĩa với những thảm họa lũ lụt.
Lời kết
Dù gì đi chăng nữa, những khám phá khoa học đã khẳng định rằng, quá trình ấm lên toàn cầu làm tăng nhiệt độ bề mặt nước biển, và chính việc tăng này lại tăng cường độ những cơn bão. Trong báo cáo của Ủy ban liên Chính phủ về thay đổi khí hậu vào tháng 5 năm 2007 đã kết luận: Có những bằng chứng quan sát cho thấy hoạt động của những cơn bão nhiệt đới đang tăng lên ở Bắc Đại tây Dương kể từ 1970, và sự tăng này đồng liên hệ với việc tăng nhiệt độ bề mặt nước biển ở vùng nhiệt đới.
Trong khi nhân loại tiếp tục nỗ lực hoàn thiện những mô hình và quan sát, thì chúng ta phải thông minh ứng phó với những mối đe dọa khôn lường của những cơn bão.
Đức Phường (Theo Scientific American)
GSTS Võ Tòng Xuân: ĐANG QUÊN MÔI TRƯỜNG! 
( Tia s¸ng - 11:45:36 05/01/2007)
Mở đầu cuộc trao đổi với Tia sáng, Giáo sư Tiến sĩ Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng trường đại học An Giang, khẳng định: “Thời chiến tranh, bom đạn, thuốc hoá học... đã huỷ hoại tàn khốc môi trường. Nay thời bình, môi trường vẫn bị hủy hoại không kém”...
Đành phải nói đấy là sự thật. Nông dân Việt Nam vẫn còn rất nhiều người nghèo. Cái nghèo, buộc họ phải khai thác thiên nhiên để sống. Cứ thấy nhiều vùng, nhiều người giàu lên vì con tôm sú, nên họ cũng ào ạt đi theo. Nuôi tôm, nhưng đất đai hạn chế sinh ra chuyện phá rừng ngập mặn, bỏ lúa...lập vuông nuôi. 
Rừng giảm dần diện tích, đồng nghĩa với môi trường sinh sản của nhiều loài thuỷ sản, động vật sinh sống tại đó bị ảnh hưởng. Nguồn lợi thiên nhiên suy giảm đã đành, chuyện chắn gió, chống sạt lở bờ biển cũng ảnh hưởng theo. Tôi nói thật, dân mình vẫn còn nhiều người có tâm lý: cứ lợi dụng được gì, lợi dụng nấy. Chặt một vạt rừng, thải một mớ rác, mà cứ nghĩ không ảnh hưởng ai.
Chuyện nuôi tôm, thậm chí có nơi, nông dân còn làm áp lực để Nhà nước cho họ bỏ lúa nuôi tôm mà chưa tính đến chuyện mình có vững kỹ thuật nuôi hay không, đất vùng đó có thích hợp không. Đất nuôi tôm nhiễm mặn, dễ nhiễm nhiều mầm bệnh. Cộng thêm lượng thức ăn cho tôm bị dư, lâu ngày hoá thành chất sulfic, vô tình tạo môi trường tốt cho các vi khuẩn gây bệnh bám vào tôm. Nhiều nơi, có vuông tôm chết sạch vì bệnh đốm trắng. Đâu dừng lại ở đó! Nhà nước hiện thiếu kinh phí đầu tư thuỷ lợi hợp lý cho nuôi thuỷ sản, nên ở các vùng nuôi tôm, nước từ vuông tôm bị nhiễm bệnh, tuôn ra kênh rạch tự nhiên, lại len vào vuông khác, mang theo mầm bệnh. Rồi sự di chuyển của nguồn nước ấy, cảnh báo kéo theo sự tàn phá thảm thực vật ven kênh rạch, rừng ngập mặn ven biển, diệt cả nhiều loại thuỷ sản quí trong tự nhiên.
Nông dân có tâm lý “hễ thua phải gỡ”. Thất vụ này, gầy vụ khác. Có người, chỉ cho đó là do con giống, do thời tiết chứ không ngờ tôm chết có thể chính từ ảnh hưởng môi trường. Thậm chí, nhiều người chưa nhận thức rõ việc nuôi tôm của họ ảnh hưởng đến môi trường như thế nào.
Đất nuôi tôm, nước mặn đã phá cấu trúc đất. Muốn chuyển trở lại trồng lúa, phải mất từ 5- 6 năm, thậm chí 10 năm mới thực sự ngọt hóa trở lại để lúa phát triển tốt.
Đài Loan, Thái Lan, Philippinnes... đều từng chung “số phận”. Nhiều vùng ven biển, trở thành vùng “trắng”. Nhưng tôm chết liên miên, diện tích rừng suy giảm, họ cảnh báo và nông dân bỏ ngay. Hiện nay, họ chỉ nuôi ở vùng qui hoạch, có đầu tư hệ thống thuỷ lợi đúng cách.  
Còn chất thải của các nhà máy chế biến, phải đầu tư hệ thống xử lý nước thải. Nhưng xem ra, việc thực hiện vẫn chỗ có chỗ không? Ở Long An, trước đây có một nhà máy thải nước gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Dân kiến nghị, ngành chức năng lập tức yêu cầu đóng cửa. Chỉ vài tháng sau, nhà máy này đầu tư hệ thống xử lý nước thải trị giá năm triệu đô la Mỹ. Nhưng tại Việt Nam, những trường hợp xử lý kiên quyết như thế không nhiều. Khó ở chỗ, làm gay buộc nhà máy đóng cửa, công nhân mất việc thì tính sao? Chưa nói đến việc nể nang nhau, nhất là giữa cơ quan Nhà nước với xí nghiệp cũng của Nhà nước.
Thực ra giải pháp khắc phục đã có từ lâu, nhưng thực hiện được hay không mới khó. Ở Indonesia, chính phủ đứng ra vay tiền của Ngân hàng Thế giới, đầu tư hệ thống thuỷ lợi phù hợp cho hàng ngàn héc-ta. Nước vào vuông hay thải ra, có hệ thống xử lý riêng biệt, không gây ảnh hưởng môi trường. Nông dân chỉ việc đến nhận đất, nuôi tôm theo định hướng, kế hoạch cụ thể theo sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật.  
Còn ở ta, trước mắt có thể nuôi tôm theo mô hình tôm-lúa. Nước mặn chỉ xâm xấp ở tầng trên, chất thải qua quá trình nuôi, đến mùa mưa khi gieo trồng lúa có thể “nhờ” cây lúa xử lý. 
Đối với các nhà máy chế biến, tôi nghĩ, không cách gì khác là phải xử lý kiên quyết. Dự án đầu tư, chỉ cấp phép khi có kèm theo dự án xây dựng hệ thống xử lý nước thải. Khi nhà máy đi vào hoạt động, phải kiểm tra xem hệ thống này có hoạt động cùng lúc hay không. Phải kiên quyết phạt tiền, đóng cửa nếu vi phạm. Đừng ham xuất khẩu lấy nhiều đô la mà hy sinh môi trường.
Chuyện phá rừng nuôi tôm cũng phải kiên quyết. Theo tôi, có thể phạt tiền, hay buộc người vi phạm phải trồng lại bao nhiêu héc-ta rừng tương xứng. Tôi nói phải kiên quyết, bởi lẽ, đã có rất nhiều hội nghị khoa học, có cả nhiều đại diện các nước, bàn về chuyện nuôi tôm như thế nào không ô nhiễm, không ảnh hưởng diện tích rừng. Nhưng cái khó cũng thấy rõ. Chính quyền xã là nơi sâu sát nhất. Nhưng không tránh khỏi chuyện, một vài nơi vẫn làm ngơ. Bởi cứ khư khư giữ rừng, lấy thuế đâu mà thu?
Thượng sách nhất, nên khuyến khích mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến. Nuôi ở mật độ thấp, trồng xen cây rừng. Hoặc không, cứ nuôi theo dạng sinh thái, mất một ít diện tích rừng nhưng giữ được nguồn lợi thuỷ sản thiên nhiên lâu dài./.
Lệ Hương ghi
Theo Giáo sư Tiến sĩ Võ Tòng Xuân, mô hình thuỷ lợi thích hợp cho việc nuôi thuỷ sản có thể nghiên cứu:
- Có kênh lớn tập trung để lấy nước từ biển, pha độ mặn thích hợp, sau đó bơm vào vuông.
- Cạnh đó, có kênh tiêu tập trung, cách biệt với nguồn nước vào. Nước thải từ các vuông đổ vào kênh này, dẫn vào một vuông lớn khác. Tại vuông này, nuôi các loại ốc, vọp... xử lý lượng thức ăn dư thừa của tôm. Nước xử lý xong, đưa qua tiếp một khu rừng sác ngập mặn để đảm bảo lọc sạch trước khi đổ ra biển.
THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI VỀ MÔI TRƯỜNG KHI GIA NHẬP WTO 
( Tia s¸ng - 11:51:04 17/11/2006 )
Trong các hoạt động liên quan đến các vấn đề môi trường, nhiệm vụ duy nhất của WTO là nghiên cứu các vấn đề xuất hiện khi các chính sách môi trường có tác động đáng kể đến thương mại. Các thành viên của WTO cho rằng WTO không phải là cơ quan môi trường, vì vậy không muốn can thiệp vào các chính sách môi trường quốc gia hoặc quốc tế, hoặc thiết lập các tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, có một số các thỏa thuận của WTO bao gồm các điều khoản liên quan đến môi trường, ví dụ như: 
· Điều XX của Hiệp định chung về Thuế quan và thương mại (GATT) (và cũng là Điều 14 của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ - GATS): các chính sách ảnh hưởng đến thương mại hàng hoá nhằm bảo vệ đời sống và sức khoẻ của con người, động vật, thực vật được miễn trừ khỏi các quy tắc thông thường của GATT trong những điều kiện nhất định.
· WTO cho phép đề xuất và áp dụng các rào cản kỹ thuật đối với thương mại (tức là các tiêu chuẩn sản phẩm và công nghiệp), trong đó có các biện pháp an toàn và vệ sinh thực phẩm nhằm mục đích bảo vệ môi trường;  
· Về hoạt động thương mại trong nông nghiệp, WTO cho phép các chương trình môi trường được miễn trừ khỏi việc cắt giảm chính sách trợ giá của Chính phủ; 
· Về chính sách trợ giá và bù thuế, WTO cho phép trợ giá đến 20% giá thành cố định khi áp dụng các luật môi trường mới; 
· Về chính sách sở hữu trí tuệ, WTO cho phép các chính phủ có thể từ chối cấp bằng cho các phát minh đe dọa cuộc sống và sức khoẻ của con người, động vật và thực vật, hoặc gây rủi ro thiệt hại nghiêm trọng tới môi trường (Điều 27 của Hiệp định về Sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại - TRIPS).
Như vậy, việc gắn kết các quy định về môi trường trong các công ước quốc tế về môi trường hoặc các hiệp định môi trường đa phương (Multilateral Environmental Agreements-MEAs) với các hoạt động thương mại quốc tế được thể hiện và thực hiện thông qua các hiệp định thương mại đa phương của WTO.
7% dân số thế giới đang thiếu nước sạch 
( Tia s¸ng- 11:41:12 17/11/2006 )
Trong bản báo cáo ra ngày 9-11, Chương trình phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP) đã đưa ra những con số đáng lo ngại: 1,1 tỉ người chưa được sử dụng nước sạch, 2,6 tỉ người vẫn chưa tiếp cận được các điều kiện vệ sinh.
Theo đó, UNDP đặt ra yêu cầu cung cấp 20 lít nước sạch mỗi ngày cho những người nghèo nhất.
Mỗi năm, 1.8 triệu trẻ em chết do sự nhiễm khuẩn truyền qua nguồn nước bẩn. Hàng triệu phụ nữ hàng ngày phải mất nhiều giờ để tìm được nước cần thiết cho gia đình và các cư dân trong các khu dân nghèo của thành phố trả tiền nước đắt từ 5 đến 10 lần hơn các vùng khác. Bảng báo cáo ước tính rằng mỗi năm, Châu Phi lãng phí khoảng 5% tổng sản phẩm quốc nội do sự thiếu hụt nguồn nước sạch.
Những mục tiêu thiên niên kỷ được thông qua bởi Liên Hợp quốc vào năm 2000 dự kiến giảm một nửa sự thiếu hụt này từ đây đến 2015. Nhưng theo Kermal Dervis -Giám đốc của chương trình Phát triển LHQ, mục tiêu này khó đạt được do lĩnh vực này ít được ưu tiên trong chi tiêu của các chính phủ. Theo đó các chính phủ chỉ dành ít hơn 5% trong tổng thu nhập quốc dân vào việc cung cấp nước sạch; lấy một ví dụ như Pakistan dành ngân sách cho quân sự gấp 47 lần so với ngân sách cho nước hợp vệ sinh.
Đạt được những mục tiêu Thiên niên kỷ sẽ cứu sống một triệu trẻ em trong thập kỷ tới và tiết kiệm 38 tỉ đôla mỗi năm, Tổ chức y tế thế giới ước tính rằng chỉ một đôla đầu tư vào các nước có thu nhập thấp thu lại được gần 8 đôla. Thêm vào đó, một sự tiếp cận nước tốt là một cách thức hữu hiệu để bảo vệ 830 triệu người dân sống ở vùng nông thôn chịu kém dinh dưỡng và bị đe dọa bởi sự nóng lên của khí hậu.
Để đạt được 20 lít nước sạch cho mỗi người mỗi ngày, tổ chức Phát triển của LHQ đề nghị các quốc gia đặt nước sạch và việc làm sạch lên hàng đầu của các việc ưu tiên và dành 1% trong tổng thu nhập quốc dân.
Liệu rằng sẽ xảy ra những cuộc chiến tranh vì nước?
Theo các nhà quan sát, 90% dân số sống trên 145 quốc gia chia sẽ nhau trong việc dùng các nguồn nước thì một cuôc chiến tranh về nước sẽ không tránh khỏi. Tuy vậy UNDP tin rằng trong tương lai sẽ không có nguy cơ một cuộc chiến tranh về nước. Trong vòng 50 năm qua, theo thống kê có 37 cuộc xung đột giữa các quốc gia liên quan đến vấn đề nguồn nước, 30 trong tổng số đó xảy ra ở vùng Trung Đông. Do đó, 200 bản hiệp ước về việc kiểm soát nguồn nước chung đã được ký kết. Theo bảng báo cáo của UNDP, mặc dầu số người cần nguồn nước sạch ngày càng cao, nhưng những mâu thuẫn về quyền lợi liên quan đến nước sạch sẽ được giải quyết qua hợp tác và đối thoại.
Trí Nguyên (Theo Le Monde)
KYOTO, một dự án có nguy cơ thất bại? 
( Tia s¸ng - 11:44:05 17/11/2006 )
Sau tuyên bố của Canada tại Bonn tháng 5 năm 2006, Nghị định thư Kyoto (Kyoto Protocol) có nguy cơ thất bại, trong khi quả đất đang nóng dần [1].
Các mốc lịch sử 
1992    Tại Rio lãnh đạo các nước thống nhất nhận thức về sự thay đổi khí hậu vì các khí gây hiệu ứng nhà kính.
1997    11 tháng 12: Nghị định thư Kyoto được ký kết [2].
2001    Mỹ tuyên bố không phê chuẩn Nghị định thư Kyoto.
2002    23 tháng 5, Iceland phê chuẩn như vậy điều khoản 55 phía được thỏa mãn 17 tháng 12, Canada phê chuẩn Nghị định thư.
2004    18 tháng 11: Nga phê chuẩn Nghị định thư Kyoto, như thế điều khoản 55% tổng phát thải được thỏa mãn 
2005    1 tháng giêng: Thành lập hệ thống Châu Âu về trao đổi quyền phát thải CO2 ( EU Emisions Trading Scheme- EU  ETS)
16 tháng 2: Nghị định thư Kyoto chính thức có hiệu lực
28 tháng 7: “Thỏa thuận của liên hiệp Châu Á - Thái Bình Dương về khí hậu và phát sạch, Asia-Pacific Partnership on Clean Development and Climate" được ký kết (gồm Mỹ, Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật & Hàn Quốc)
2006    Tháng 4: Sụt giá cacbon trên thị trường ở Châu Âu vì nhu cầu mua CO2 giảm (nguyên nhân do sự phát thải cacbon thấp hơn quota ấn định cho năm 2005).
           Tháng 5: tại Bonn, Canada lại tuyên bố không cam kết gì về giảm thiểu phát thải các chất khí nhà kính.
          Tháng 10: 166 nước đã phê chuẩn Nghị định thư.
Những điểm chính trong Nghị định thư
Mục tiêu: Giảm phát thải GHG (Green House Gas – Khí nhà kính) 5 % trong giai đoạn 2008-2012 so với mức phát thải năm 1990.
Thành phần các GHG chính:
 CO2 
Methane 
Halocarbure 
Protoxyde N
sulfur hexafluoride
Các nước liên quan: 151 nước trong tổng số 192, song mục tiêu giảm thiểu GHG chỉ nhằm vào khoảng 30 nước.
Nhiệt độ của khí quyển quanh mặt đất nóng dần vì một hiệu ứng gọi là hiệu ứng nhà kính. Năng lượng  mặt trời đi qua một lớp khí (khí nhà kính – Green House Gas GHG) gồm hơi nước, CO2, methane, NOx, ozone... Bức xạ hồng ngoại (sóng điện từ với bước sóng trong khoảng 0,000075 – 0,1 cm) trong phổ năng lượng đó phản xạ từ mặt đất ra vũ trụ song không dễ dàng đi qua lớp khí nhà kính và một phần bức xạ hồng ngoại bị hất lại quả đất làm cho quả đất có được nhiệt độ thuận tiện cho sự sống. Song nếu nhiệt độ tăng nhiều thì hiện tượng này sẽ gây nên những hệ quả có tính tai biến cho môi trường và cho con người.     
UNCED ( United Nations Conference on Environment & Development) đã họp tháng 7/1992 tại Rio de Janeiro, Brazil (xem bảng Các mốc lịch sử) để tiến hành hội thảo về nguy cơ trái đất ấm lên vì hiệu ứng nhà kính do các hoạt động của con người gây ra. Đến hội thảo có đại diện của 172 nước. 11 tháng 12 năm 1997, NghÞ ®Þnh thu Kyoto đã được ký kết và bao gồm hơn 160 nước phát thải đến 55% tổng phát thải khí nhà kính (GHG-GreenHouse Gas).
Theo NghÞ ®Þnh thu Kyoto, đến giai đoạn 2008-2012 (xem bảng 1) các nước ký NghÞ ®Þnh thu phải giảm tổng lượng thải GHG 5% so với mức năm 1990 (đối với các nước EU lượng này tương đương với 15 % mức dự đoán của năm 2008). Kết quả tính toán của các nhà khoa học cho thấy gia tăng nhiệt độ trung bình của quả đất sẽ vào khoảng 1,4oC đến 5,8oC. Nếu NghÞ ®Þnh thu Kyoto được tuân thủ thì số gia tăng đó chỉ còn 0,02oC đến 0,28oC.
NghÞ ®Þnh thu Kyoto miễn trừ nhiệm vụ giảm GHG cho Trung Quốc và Ấn Độ vì lý do đông dân. Mỹ và Australia rút khỏi NghÞ ®Þnh thu Kyoto và ký kết một thỏa thuận ngoài NghÞ ®Þnh thu Kyoto: Thỏa thuận của liên hiệp Châu Á - Thái Bình Dươngvề khí hậu và phát triển sạch (Asia-Pacific Partnership on Clean Development and Climate) cùng với các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật & Hàn Quốc. Thỏa thuận này chỉ dựa trên tinh thần tình nguyện và phát triển công nghệ cao để giảm thiểu phát thải GHG.
NghÞ ®Þnh thu Kyoto cho phép những “cơ chế mềm dẻo” theo đó một nước thực hiện nhiệm vụ giảm GHG của mình có thể mua lượng giảm GHG của một nước khác thông qua việc chuyển tài chính (như quy định trong Sơ đồ buôn bán phát thải của EU – EU Emisions Trading Scheme) hoặc dưới dạng các dự án có khả năng giảm thiểu phát thải tại nước bán theo Cơ chế Phát triển Sạch (CDM- Clean Development Mechanism)[3]. 
Hiện trạng phát thải GHG trên thế giới và tại các nước có trách nhiệm giảm thải được trình bày ở các bảng 2 & 4. 
Tháng 5 năm 2006 tại Bonn chính quyền bảo thủ vừa lên nắm chính quyền đầu năm nay ở Canada tuyên bố không thực hiện các cam kết của NghÞ ®Þnh thu Kyoto vì cho rằng  “NghÞ ®Þnh thu Kyoto đã áp đặt cho Canada những lượng giảm thải không thực tế”. Đây là một đòn đánh mạnh vào NghÞ ®Þnh thu.
Nhiều dư luận cho rằng áp đặt một hệ thống có tính bá quyền (hegemonic) như NghÞ ®Þnh thu Kyoto trên toàn cầu là một việc không dễ thực hiện nếu không có một động cơ kích thích kinh tế rõ ràng trước mắt.
Một cơ chế có thể dùng làm đòn bẩy cho việc thực hiện NghÞ ®Þnh thu là Sơ đồ buôn bán phát thải EU (EU  ETS), song dường như sơ đồ này cũng gặp khó khăn (xem bảng 3). 
Chỉ có một tín hiệu lạc quan là mặc dầu Mỹ rút khỏi NghÞ ®Þnh thu Kyoto, nhiều thành phố trong các bang của nước Mỹ tự động có kế hoạch giảm thải GHG theo tinh thần NghÞ ®Þnh thu Kyoto. Các thành phố lớn đó là: Seattle, New York City, Los Angeles, Chicago, San Francisco, Boston, Denver, New Orleans, Minneapolis, Austin, Portland, Providence, Tacoma, San Jose, Salt Lake City, Little Rock, West Palm Beach, Annapolis, Madison, Wisconsin. 
Tỉnh Quebec cũng tuyên bố không theo đường lối của chính quyền bảo thủ Canada trong vấn đề giảm thải GHG.
Dư luận cho rằng NghÞ ®Þnh th­ Kyoto có nguy cơ phá sản vào năm 2012, năm tổng kết tình hình. Lương tri thế giới mong muốn điều ngược lại.
Tài liệu tham khảo
[1] Boris Bellanger, Science & Vie, tháng 8,năm 2006
[2] Kyoto protocol, Wikipedia, free encyclopedia
[3] Cơ chế phát triển sạch (Clean Development Mechanism-CDM) là một biện pháp dàn xếp trong khuôn khổ hiệp định Kyoto cho phép các nước  công nghiệp có cam ước giảm thải GHG đầu tư những dự án giảm thải GHG vào các nước phát triển thay vì phải thực hiện những biện pháp giảm thải GHG, vốn tốn kém hơn tại chính nước họ. CDM được giám sát bởi Hội đồng hành chính CDM (CDM Executive Board-CDM EB).
Boris Bellanger
Các thách thức về môi trường khi gia nhập WTO (Tia s¸ng...2007)
 Các biện pháp quản lý thương mại có liên quan tới môi trường ngày càng được các nước sử dụng như những biện pháp quan trọng của hệ thống hàng rào kỹ thuật. Những biện pháp này, thường được gọi là các “hàng rào xanh”, và được các nước phát triển và đang phát triển ở trình độ cao sử dụng tương đối phổ biến và hiệu quả trong việc kiểm soát nhập khẩu các sản phẩm liên quan đến môi trường và bảo vệ các ngành sản xuất có liên quan trong nước.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, một số “hàng rào xanh” do các nước phát triển đưa ra chính là các thách thức về môi trường trong hoạt thương mại quốc tế khi gia nhập WTO. 
Có 2 loại “hàng rào xanh” thường được áp dụng, đó là:
1. Áp dụng đánh thuế tài nguyên: các nước phát triển xây dựng các tiêu chuẩn hàng hoá trong đó quy định nghiêm ngặt hàm lượng tài nguyên thô như là một biện pháp bảo vệ môi trường, ngăn chặn khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Như vậy, hàng hoá của các nước đang phát triển muốn nhập khẩu vào các nước này sẽ phải chịu thuế nhiều hơn vì hàm lượng tài nguyên thô lớn, điều đó hạn chế lợi thế cạnh tranh của các nước đang phát triển trong sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên;  
2. Sử dụng các tiêu chuẩn môi trường, vệ sinh an toàn, dán nhãn sinh thái như rào cản bảo hộ sản phẩm sản xuất trong nước, chống lại các sản phẩm và công nghệ nhập khẩu với lý do các sản phẩm và công nghệ này không đáp ứng các quy định về bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm của nước sở tại.
Trong lịch sử hoạt động của mình, WTO và trước đó là GATT đã phải xem xét nhiều vụ việc tranh chấp của các nước thành viên liên quan đến việc áp dụng “hàng rào xanh”. Ở đây đưa ra 2 vụ việc điển hình được nhắc đến nhiều trong thương mại quốc tế:  
·  Vụ kiện “cá ngừ-cá heo” do Mexico và một số nước khác kiện Hoa Kỳ trong khuôn khổ GATT vào năm 1991: Tại vùng biển nhiệt đới phía Tây Thái Bình Dương, cá ngừ vàng thường bơi thành đàn phía dưới đàn cá heo. Khi đánh bắt cá ngừ bằng lưới, thường cá heo cũng bị mắc lưới, sau đó dù có được gỡ ra khỏi lưới và thả lại vào biển, cá heo vẫn bị chết. Chính vì vậy Hoa Kỳ đã ban hành tiêu chuẩn bảo vệ cá heo đối với các tàu đánh bắt cá ngừ trong vùng biển này. Nếu 1 nước xuất khẩu cá ngừ vào Hoa Kỳ không chứng tỏ được với các cơ quan thẩm quyền Hoa Kỳ về việc tuân thủ tiêu chuẩn này thì Hoa Kỳ sẽ cấm nhập khẩu cá từ nước đó. Đây chính là lý do Hoa Kỳ cấm nhập khẩu cá ngừ từ Mexico.
Tuy nhiên, GATT đã không chấp thuận vụ kiện này vì cho rằng Hoa Kỳ không vi phạm các quy định của GATT. Sau đó vào năm 2002, Hoa Kỳ và Mexico đã hoà giải vụ việc “ngoài khuôn khổ pháp luật”.
· Vụ kiện của Canada chống Cộng đồng Châu Âu thực hiện cấm nhập khẩu amiang và các sản phẩm chứa amiang: Ngày 28/ 5 1998, Canada đã yêu cầu Cộng đồng Châu Âu tổ chức hội đàm về các biện pháp do Pháp áp đặt nhằm cấm nhập khẩu amiang và các sản phẩm chứa amiang, dựa trên các quy định của Nghị định của Chính phủ Pháp ngày 24/11/1996. Sau đó ngày 8/10/1998, Canada yêu cầu thành lập Bồi thẩm đoàn của WTO để giải quyết.
Ngày 18/10/2000 và sau đó ngày 12/3/2001 Bồi thẩm đoàn và Ban kháng cáo của WTO đã lần lượt từ chối không can thiệp vào lệnh của Pháp cấm nhập khẩu amiang và các sản phẩm chứa amiang vì cho rằng các hiệp định của WTO ủng hộ các nước thành viên bảo vệ sức khỏe và an toàn của con người theo mức độ mà các nước này thấy phù hợp.
Các cơ hội về môi trường khi gia nhập WTO
 Khi chính thức là thành viên WTO, Việt Nam sẽ được đối xử công bằng hơn trong thương mại quốc tế, nhất là khi các nước muốn áp dụng hàng rào kỹ thuật đối với Việt Nam. Ví dụ khi muốn áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về kháng sinh đối với hàng nông thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam thì Hoa Kỳ phải có trách nhiệm thông báo với Việt Nam về các quy định kỹ thuật này ít nhất là trước 60 ngày theo nguyên tắc minh bạch hoá và cũng phải đảm bảo rằng các sản phẩm tương tự của Hoa Kỳ cũng phải áp dụng những quy định này theo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia. Điều này trước đây và hiện nay Việt Nam vẫn thường bị phân biệt đối xử khi xuất khẩu sản phẩm sang Châu Âu và Bắc Mỹ.
Hay khi chúng ta muốn đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm đối với thực  phẩm khi nhập vào Việt Nam để ngăn ngừa dịch bệnh thì chúng ta cũng có quyền ban hành những quy định kỹ thuật cho sản phẩm này đảm bảo các biện pháp vệ sinh an toàn, miễn rằng các quy định này phải được thông báo trước với các nước thành viên, không gây những cản trở không cần thiết trong thương mại và sản phẩm trong nước cũng được áp dụng các quy định này. 
Việc giải quyết các vụ kiện thương mại liên quan đến môi trường trong khuôn khổ WTO có một ví dụ rất thú vị về việc phá “hàng rào xanh” nhờ áp dụng quy tắc minh bạch và không phân biệt đối xử của WTO. Đó là vụ kiện được biết đến như “vụ kiện tôm-rùa biển” do Ấn Độ, Malaysia, Pakistan và Thái Lan chống lại lệnh cấm nhập khẩu của Hoa Kỳ.
Đầu năm 1997 Ấn Độ, Malaysia, Pakistan và Thái Lan đưa ra vụ kiện chống Hoa Kỳ ban hành lệnh cấm nhập khẩu tôm và các sản phẩm từ tôm với lý do bảo vệ rùa biển. Theo Luật các giống loài quý hiếm Hoa Kỳ ban hành năm 1973, ngư dân Hoa Kỳ đánh bắt tôm cần phải sử dụng dụng cụ ngăn chặn rùa biển mắc lưới để bảo vệ loài giống đang có nguy cơ diệt chủng vì các hoạt động của con người. Năm 1989, tại điều 609 Luật Dân sự Hoa Kỳ, quy định này đã được áp dụng cả đối với các tàu đánh bắt tôm của các nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ.
Ban kháng cáo của WTO cho rằng các biện pháp của Hoa Kỳ bảo vệ rùa biển là phù hợp với Điều XX của GATT,  tuy nhiên lại không phù hợp với nguyên tắc tối huệ quốc. Lý do là đã có sự phân biệt đối xử của Hoa Kỳ đối với các thành viên khác nhau của WTO. Trước đó, tuân theo quy định của Điều 11 và Điều 12 Hiệp định TBT, Hoa Kỳ đã dành ưu đãi cho các nước vùng biển Caribbe bằng sự trợ giúp kỹ thuật và tài chính và cho phép có giai đoạn chuyển đổi dài để ngư dân các nước này có thể sử dụng các dụng cụ ngăn chặn rùa biển mắc vào lưới khi đánh bắt tôm và xuất khẩu vào Hoa Kỳ. 
Gia nhập WTO, Việt nam sẽ còn có cơ hội giảm thiểu ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường thông qua việc áp dụng các nguyên tắc pháp lý của WTO để xây dựng và sử dụng hợp lý "hàng rào xanh" nhằm mục đích bảo vệ các ngành sản xuất trong nước, đồng thời bảo vệ nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường.
Các giải pháp đáp ứng 
 Tham gia WTO, chúng ta cần học tập kinh nghiệm của các nước đi trước để hội nhập xu thế toàn cầu hoá trong phát triển kinh tế, đảm bảo vừa bảo vệ quyền lợi của mình, vừa phù hợp với các quy định của quốc tế. Riêng trong lĩnh vực các hoạt động thương mại có liên quan đến môi trường, cần nhanh chóng thực hiện các giải pháp trước mắt sau đây:
· Ban hành các quy định về cấm nhập khẩu các sản phẩm đã bị cấm ở thị trường nước ngoài, các quy định về nhãn hàng hoá thân thiện môi trường (nhãn sinh thái – ecolabel), các quy định cụ thể về thuế và phí môi trường và các quy định về cơ sở khoa học áp dụng các biện pháp “hàng rào xanh” phù hợp với quy định của WTO; 
· Tích cực, chủ động tham gia vòng đàm phán Doha, mạnh dạn sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của các công ước quốc tế về môi trường hoặc các hiệp định môi trường đa phương và của WTO để giải quyết một cách bình đẳng các tranh chấp thương mại quốc tế; 
· Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các công ước môi trường mà Việt Nam đã ký kết tham gia với các hiệp định thương mại đa phương của WTO. Nghiên cứu kỹ và có giải pháp chính sách đồng bộ về quản lý thương mại các hàng hoá và dịch vụ liên quan đến môi trường; 
· Chuẩn bị tốt nguồn lực để vượt qua các hàng rào kỹ thuật về bảo vệ môi trường. Tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến các quy định về môi trường của quy trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm, coi đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường là một bộ phận cấu thành trong hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh./. 
Lê Hoàng Lan
Tư liệu tham khảo:
Cái giá cho sự phát triển kinh tế quá nóng 
25/11/2007 09:03
(HNM) - Chính phủ Trung Quốc vừa công bố một thống kê gây sửng sốt: tỷ lệ trẻ sơ sinh bị khuyết tật đã tăng gần 40% kể từ năm 2001, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Các quan chức Trung Quốc đã ngay lập tức liên hệ sự việc này với tình trạng chất lượng môi trường ngày càng xuống cấp.
 Có một thực tế đang tồn tại ở Trung Quốc: Khi bị liệt vào danh sách những địa điểm ô nhiễm nhất thế giới, các thành phố lớn của Trung Quốc đã trở thành tâm điểm của mọi nỗ lực chính thức làm sạch khói thải nhà máy và xe ô tô khỏi bầu trời vốn đã phủ mờ khói bụi. Nhưng khi những khu vực giàu hơn được áp dụng những biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn thì các nhà máy gây ô nhiễm lại được xây dựng ở khu vực nông thôn nghèo hơn, nơi có hàng trăm triệu người sinh sống. Một báo cáo của Văn phòng Quốc vụ viện Trung Quốc khẳng định tình hình môi trường ở khu vực nông thôn đang cực kỳ nghiêm trọng. Vấn đề môi trường ở khu vực này đã trở thành nhân tố chính đe dọa sức khỏe thể chất và tài sản của người nông dân, và đây rõ ràng là những vấn đề đang kìm hãm phát triển văn hóa và xã hội của khu vực này. Ô nhiễm ở những khu vực nông thôn rộng lớn đang đe dọa chất lượng nguồn nước, đất trồng và sức khỏe của hàng trăm triệu dân nhiều đời nay quen sống với thiên nhiên thuần khiết và môi trường trong sạch.
Thế nhưng, làm sạch khu vực nông thôn sẽ không dễ dàng.
Các nhà máy có thể là thủ phạm gây ô nhiễm chính, nhưng những kẻ đóng góp thu nhập cho bộ máy chính quyền địa phương cồng kềnh và các quan chức nhận đút lót cũng là vấn đề. Một lý do nữa, là khi những người nông dân biến thành những người công nhân giàu hơn, họ cũng sẽ chấp nhận thực trạng ô nhiễm một cách dễ dãi hơn.
Nhiều tổ chức quốc tế cũng đã phải lên tiếng cảnh báo về mức độ ô nhiễm của Trung Quốc do nền kinh tế phát triển quá nóng ở nước này. Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố báo cáo cho rằng ô nhiễm không khí và nguồn nước đang khiến Trung Quốc phải trả giá khoảng 100 tỷ USD/năm, tương đương khoảng 5,8% GDP, nhưng những thiệt hại đối với sức khỏe con người là không thể lường hết.
Theo báo cáo của WB kết hợp với đánh giá của Cơ quan Bảo vệ môi trường Nhà nước Trung Quốc, ô nhiễm không khí, đặc biệt là tại các thành phố lớn, đang dẫn đến tỷ lệ cao mắc các bệnh về phổi, bao gồm: ung thư, bệnh về hô hấp, khiến số người nghỉ làm, nghỉ học tăng lên.
Ô nhiễm bụi (PM) gồm các hạt bụi, bụi đất, phấn hoa, mốc, tro, muội bị nghẽn trong không khí -hiện là nguy cơ chủ yếu đối với sức khỏe con người. Mật độ PM trung bình ở miền Bắc Trung Quốc là 112 micrôgam và ở miền Nam là 88 micrôgam; thành phố - thủ đô Bắc Kinh cũng đang đối mặt với thách thức lớn khi mật độ trung bình PM tại đây lên tới 141 micrôgam. Cách hiệu quả để giảm ô nhiễm không khí là chuyển các nhà máy chế tạo ra khỏi các trung tâm thành phố, thay thế các lò sưởi chạy than bằng hệ thống sưởi ấm chạy bằng khí đốt hóa lỏng, đồng thời tăng cường đầu tư nhà nước cho vận tải công cộng và hạn chế sử dụng xe ô tô riêng.
Trung Quốc đã coi bảo vệ môi trường là ưu tiên hàng đầu trong kế hoạch 5 năm lần thứ 11, đồng thời kêu gọi “một nguồn tài nguyên cứu xã hội”. Trung Quốc đã đề ra mục tiêu cải thiện sử dụng năng lượng hiệu quả bằng cách cắt giảm 20% lượng tiêu thụ năng lượng trên 1 đơn vị GDP và 10% các chất ô nhiễm chủ yếu trong thời gian từ năm 2006 đến 2010. Như một phần trong nỗ lực hạn chế ô nhiễm môi trường, lãnh đạo nước này đã tuyên bố những Cty gây ô nhiễm sẽ không được nhận các khoản cho vay. Đã có hơn 10 Cty bị trừng phạt theo biện pháp này do bị cáo buộc vi phạm luật bảo vệ môi trường. Những doanh nghiệp bị cáo buộc vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường hiện đang phải đối mặt với khoản tiền phạt tối đa lên tới 100.000 NDT (13.500 USD).
Nhật Mai
Sâu tấn công rừng thông
21:41' 21/11/2005 (GMT+7)
 1.000 ha, tức hơn 25% diện tích rừng thông của lâm trường Bến Hải (Quảng Trị) bị sâu róm phá hoại. Mỗi đêm, có thể bẫy được... 50-100 kg sâu! 
Một loài sâu đang phá hoại cây cối (ảnh minh hoạ)
 Các khu rừng thông của lâm trường Bến Hải (tỉnh Quảng Trị) đang bị sâu róm hoành hành dữ dội.
Ước tính diện tích bị sâu róm phá hoại đến thời điểm này đã lên tới hơn 1.000ha, chiếm hơn 25% tổng diện tích rừng lâm trường đang khai thác. 
Tại các tiểu khu 548, 549 và 554, mật độ sâu róm dày đặc, khoảng 500-700 con/cây. 
Hiện lâm trường đã phải dừng việc khai thác nhựa thông tại các khu vực này và hạn chế sự lan tỏa của sâu róm bằng phương pháp bẫy đèn. 
Với những chiếc bóng đèn có công suất lớn, bình quân mỗi đêm công nhân có thể bẫy được 50kg sâu trưởng thành, cá biệt có đêm bẫy được 100 kg. 
Biện pháp này đã làm giảm đáng kể mật độ và sự tăng trưởng của sâu róm tại khu vực này.
Bắc Cực - bằng chứng của sự ấm lên toàn cầu
11:42' 21/11/2005 (GMT+7)
Cuộc sống thật khắc nghiệt trên vùng lãnh nguyên băng giá Harstad của Vòng Bắc cực nơi Anna Prakhova đang sống. Tuy nhiên, cuộc sống có thể khắc nghiệt hơn nhiều khi tuyết không còn rơi.
Vòng Bắc cực (vạch đỏ)
 Trong những năm gần đây, tuyết không còn rơi như thường lệ trên nhiều vùng rộng lớn của mảnh đất hoang vắng, thỉnh thoảng được điểm xuyết vài cây thông và bulo này. Prakhova, trưởng nhóm đại diện cho những người bản địa ở Nga và các quốc gia Bắc Âu, cho biết: ''Chúng ta đang chứng kiến sự thay đổi khí hậu thực sự''. 
Nhiều bằng chứng về thay đổi khí hậu
Nhiều chuyên gia cho rằng con người đang đẩy nhiệt độ toàn cầu lên cao. Bằng chứng này ngày càng rõ ràng, thể hiện ở hiện tượng các dải băng ở Bắc cực đang thu hẹp và sự ấm dần lên của Ấn Độ dương. Theo kết quả khảo sát của NASA và Trung tâm dữ liệu băng tuyết quốc gia Hoa Kỳ, trong tháng 9/2005 băng ở vùng cực đã thu hẹp tới mức thấp nhất trong vòng 100 năm qua. Một cuộc khảo sát trong năm nay của các nhà khoa học Hoa Kỳ tại Viện hải dương học Scripps cho thấy Thái Bình dương, Đại Tây dương và Ấn Độ dương đang ấm lên trong những thập kỷ gần đây.
Khắp vùng lãnh nguyên Harstad, những mùa đông ít lạnh giá hơn đã giúp một số sâu bệnh sinh sôi, chẳng hạn như bọ cánh cứng và sâu hại. Những sinh vật này đang phá huỷ các cánh rừng ở Bắc Cực. Ở miền Bắc nước Nga, người ta thường xuyên nhìn thấy ếch trên lãnh nguyên này và một số loài chim chẳng màng di cư như trước. 
 Prakhova rất lo lắng về những điều đang xảy ra. Bà cho biết những con tuần lộc mà người Sami (người Sami sống ở Nga, Phần Lan, Thuỵ Điển và Na Uy) thường chăn giữ đã gặp nguy hiểm khi tuyết không rơi trong mùa đông. ''Tuyết lạnh đối với con người song lại là một chiếc giường mùa đông mềm mại đối với tuần lộc'', Prakhova nói. Thiếu tuyết cũng làm cho tuần lộc khó ăn địa y bởi loại thực vật này có thể bị băng cứng bao phủ. Băng sẽ cứa đứt những chiếc mõm mềm của tuần lộc.
Tiểu ban liên chính phủ về sự thay đổi khí hậu (IPCC) chắc chắn sẽ đưa ra những cảnh báo mạnh hơn trong báo cáo năm 2007: sự phát thải khí nhà kính từ các nhà máy điện, các nhà máy và xe cộ đang làm đảo lộn khí hậu. Sự lên tiếng ngày càng mạnh của các nhà khoa học cũng làm gia tăng áp lực đối với các chính phủ sẽ tới hội đàm về khí hậu tại Montreal, Canada từ 28/11 tới 9/12. Mục đích là thúc đẩy họ làm nhiều hơn để giải quyết một vấn đề mà có thể tốn hàng nghìn tỷ đôla để khắc phục trong những thập kỷ tới. 10.000 đại biểu tới Montreal sẽ thảo luận cách ngăn chặn sự thay đổi của khí hậu, đặc biệt là sau năm 2002 khi Nghị định thư Kyoto hết hiệu lực.
Trách ai đây?
Paal Prestrud, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu môi trường và khí hậu quốc tế tại Oslo (Na Uy), nói: ''Có bằng chứng ngày càng rõ rằng con người đang

File đính kèm:

  • doctai_lieu_ve_moi_truong.doc