SKKN Phương pháp hướng dẫn học sinh chuyên Ngữ Văn làm quen với công tác nghiên cứu khoa học
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Phương pháp hướng dẫn học sinh chuyên Ngữ Văn làm quen với công tác nghiên cứu khoa học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Phương pháp hướng dẫn học sinh chuyên Ngữ Văn làm quen với công tác nghiên cứu khoa học
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Đơn vị : TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ QUÝ ĐÔN ===================== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH CHUYÊN NGỮ VĂN LÀM QUEN VỚI CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Chuyên ngành : Phương pháp dạy học Người thực hiện : Trần Thị Thiên Vân Chức vụ : Giáo viên Tổ chuyên môn : Ngữ văn Đà Nẵng, tháng 02/2008 PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH CHUYÊN NGỮ VĂN LÀM QUEN VỚI CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài: Chất lượng giáo dục luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Hiện nay, ngành giáo dục nước ta đã và đang có những thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Một trong những vấn đề được đưa ra bàn bạc nhiều nhất là phương pháp dạy học. Để đào tạo được những người lao động thực sự năng động, hiệu quả thì cần có các phương pháp dạy học phù hợp. Tuy nhiên để khẳng định và đề xuất một phương pháp dạy học tối ưu là một việc làm khó khăn. Bởi không phải bất kì một người giáo viên nào có một kiến thức sâu rộng, một trái tim yêu thương và một tâm hồn thấu hiểu là đều có thể tìm ra những phương pháp dạy học hiệu quả. Dạy học là một quá trình và trong quá trình ấy, mọi việc luôn có khả năng biến đổi không lường. Vì vậy, người giáo viên cần linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp đối với từng đối tượng học sinh và trong những thời điểm khác nhau. Trong mối quan tâm chung của ngành giáo dục, việc hướng dẫn học sinh chuyên Ngữ văn làm quen với nghiên cứu khoa học có lẽ không phải là phương pháp hoàn toàn mới mẻ bởi việc làm này đã từng được áp dụng dưới hình thức ra các bài tập chuyên sâu cho học sinh hoặc nhóm học sinh làm ở nhà. Tuy nhiên, một thực tế là cả giáo viên và học sinh đều chưa xem trọng và chưa xác định rõ vai trò của các bài tập này trong quá trình dạy học. Với chuyên đề “Phương pháp hướng dẫn học sinh chuyên Ngữ văn làm quen với công tác nghiên cứu khoa học”, chúng tôi mong rằng chúng ta nên xem việc hướng dẫn học sinh làm bài tập chuyên sâu ở nhà như một phương pháp học tập hỗ trợ đắc lực cho các giờ dạy chính khóa trên lớp và góp phần đào tạo những con người thực sự năng động trong công việc, chủ động trong kiến thức. Hơn nữa, khác với các môn học khác, để có được một tiết học Ngữ văn đạt hiệu quả cao đòi hỏi cả thầy và trò đều phải có sự chuẩn bị tích cực, chu đáo. Văn học không đơn thuần là việc giải nghĩa ngôn từ mà đó là cuộc sống. Học sinh muốn hiểu thấu cái hay, cái đẹp của văn chương cần phải đọc nhiều để có vốn sống phong phú. Đây thực sự là một việc làm tốn nhiều thời gian. Vì vậy, hướng dẫn học sinh đọc thêm ở nhà là việc làm cần thiết nhằm giúp học sinh có điều kiện đào sâu kiến thức học trên lớp. Với những lí do trên, chúng tôi nhận thấy thật sự cần thiết phải tim hiểu “Phương pháp hướng dẫn học sinh chuyên Ngữ văn làm quen với công tác nghiên cứu khoa học” nhằm giúp học sinh cách thức chiếm lĩnh kho tàng tri thức mênh mông của nhân loại. II. Mục đích của đề tài: Việc áp dụng phương pháp này nhằm đạt được các mục đích sau: Đây là phương pháp dạy học mang tính hỗ trợ nhằm tạo nên ở học sinh tính siêng năng, kích thích óc tò mò và đam mê tìm hiểu các vấn đề khoa học. Nếu được thực hiện một cách nghiêm túc và có hiệu quả, phương pháp này sẽ giúp học sinh chuyên có thói quen tiếp cận và xử lí các nguồn tài liệu để phục vụ cho việc học một cách có hệ thống. Đồng thời, phương pháp này sẽ giúp học sinh đi sâu vào những vấn đề thuộc môn chuyên mà mình yêu thích. Trên cơ sở áp dụng phương pháp này, dần dần người học sẽ có thói quen chủ động, tự giác trong quá trình học tập, điều đó sẽ tích cực hóa vai trò của học sinh và rèn luyện khả năng tự học. Nghiên cứu khoa học là phương pháp học tập phổ biến ở các bậc đại học và sau đại học, việc giúp học sinh làm quen với phương pháp này ở mức độ phù hợp sẽ tạo nền tảng vững chắc giúp học sinh tránh bỡ ngỡ khi tiếp tục ở các bậc học cao hơn. Đồng thời, khi sử dụng phương pháp này, giáo viên có điều kiện gần gũi và nhận ra những mặt còn thiếu hụt trong kiến thức của học sinh để có phương pháp bổ sung thích hợp. NỘI DUNG I. Công tác nghiên cứu khoa học và học sinh chuyên Ngữ văn trong các trường THPT: 1. Học sinh THPT với công tác nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu khoa học là phương pháp học tập ngày càng phổ biến trong các khóa đào tạo đại học và sau đại học. Hiện nay, phương pháp này góp phần quan trọng trong việc đào tạo những sinh viên có trình độ chuyên môn cao, năng động và chủ động trong việc áp dụng các kiến thức đã học vào quá trình công tác. Tuy nhiên, đối với đa số học sinh trong các trường THPT, phương pháp học tập này còn quá xa lạ. Trước hết, các trường đều không có đủ cơ sở vật chất như: tài liệu chuyên sâu, các phương tiện công nghệ thông tin... để phục vụ cho quá trình thực hiện đề tài của học sinh. Hơn nữa, ngay cả đối với giáo viên, nghiên cứu khoa học vẫn là công việc xa vời bởi họ phải dạy quá nhiều lớp, mất nhiều thời gian để chuẩn bị cho các tiết dạy trên lớp hoặc dành thời gian cho việc dạy thêm. Vì vậy, hầu như rất nhiều giáo viên, đặc biệt đối với giáo viên các vùng khó khăn, họ không có thời gian dành cho việc nghiên cứu khoa học. Nhưng có lẽ, nguyên nhân quan trọng khiến cho công tác nghiên cứu khoa học không được chú ý trong các trường THPT bởi trình độ của học sinh chưa thể đáp ứng yêu cầu của công việc này. Kiến thức của học sinh sau khi tốt nghiệp THCS còn ít ỏi, tủn mủn, rời rạc. Vì vậy, học sinh không có khả năng hệ thống các kiến thức đã học để tập trung giải quyết một vấn đề . Hơn nữa, đa số học sinh rất lười đọc, riêng đối với các sách có liên quan đến môn Ngữ văn, đặc biệt là sách nghiên cứu, học sinh hầu như không hề đọc đến. Việc học của học sinh chỉ dừng lại ở những gì giáo viên truyền thụ trên lớp. Đối với học sinh THPT, nghiên cứu khoa học là một việc làm tương đối khó bởi nó đòi hỏi sự cần cù, óc sáng tạo và sự chủ động khi tiếp xúc, xử lí một nguồn tài liệu tương đối phong phú. Để thực hiện một đề tài đạt được yêu cầu cơ bản do giáo viên đặt ra, học sinh phải có một kiến thức tương đối vững và phải mất rất nhiều thời gian. Vì vậy, cho đến nay, ngoài một số lớp chuyên giáo viên có thể ra thêm các bài tập chuyên sâu để HS làm thêm ở nhà còn đa số học sinh THPT đều xa lạ với công tác nghiên cứu khoa học. 2. Tính khả thi của đề tài “Phương pháp hướng dẫn học sinh chuyên Ngữ văn làm quen với công tác nghiên cứu khoa học”: Tuy đối với học sinh THPT, việc dùng phương pháp nghiên cứu khoa học để hỗ trợ cho quá trình học tập trên lớp còn khá lạ lẫm nhưng đối với học sinh chuyên Ngữ văn thì phương pháp này có thể áp dụng thành công nếu giáo viên sử dụng nó một cách hợp lí. Đối với học sinh chuyên Ngữ văn, đặc biệt là ở các trường chuyên, việc áp dụng phương pháp này có nhiều điều kiện thuận lợi: Đa số các trường chuyên được đầu tư khá đầy đủ về cơ sở vật chất. Thư viện có nhiều đầu sách mang tính chuyên sâu phục vụ tốt cho việc tìm hiểu, nghiên cứu. Hơn nữa, các phương tiện công nghệ thông tin được trang bị hiện đại giúp học sinh dễ dàng lên mạng Internet để tìm tư liệu hoặc có thể trình bày công trình của mình trên các phần mềm vi tính. Bên cạnh đó, giáo viên dạy chuyên thường dạy ít lớp nên có nhiều điều kiện hơn để sưu tầm xử lí tài liệu và giúp đỡ học sinh trong quá trình thực hiện đề tài. Một điều kiện thuận lợi cơ bản quyết định tính khả thi của phương pháp này là học sinh chuyên Ngữ văn là một đối tượng có những đặc thù riêng. Đa số các em yêu thích văn chương, cần cù, say mê khám phá và có một kiến thức về văn học tương đối rộng. Điều này sẽ giúp giáo viên có thể áp dụng phương pháp này một cách có hiệu quả. Với những điều kiện thuận lợi trên, chúng tôi cho rằng đối với học sinh chuyên Ngữ văn, việc hướng dẫn cho các em làm quen với công tác nghiên cứu khoa học một cách phù hợp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của của các giờ học chính khóa. II. Phương pháp hướng dẫn học sinh chuyên Ngữ văn làm quen với công tác nghiên cứu khoa học: Giới thuyết khái niệm “nghiên cứu khoa học”: Thông thường, khi nói đến nghiên cứu khoa học chúng ta thường nghĩ đến những công trình lớn lao, những phát minh vĩ đại hoặc ít nhất cũng là công việc khám phá ra cái gì mới mẻ. Tuy nhiên, trong đề tài này, nghiên cứu khoa học được dùng để chỉ việc giáo viên gợi ý, hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu một vấn đề có liên quan đến các đơn vị kiến thức trong sách giáo khoa nhưng mang tính chuyên sâu hơn và học sinh tự đọc, xử lí các tài liệu một cách tự giác, chủ động để trình bày một cách có hệ thống vấn đề đặt ra theo quan điểm của mình. Với trình độ của học sinh THPT, chúng ta không thể đặt ra yêu cầu quá cao đối với các em, vì vậy, phương pháp không thể xem là phương pháp dạy học cơ bản mà nó chỉ có chức năng hỗ trợ cho quá trình học tập của học sinh. 2. Phương pháp chung: Dù là hướng dẫn HS tìm hiểu loại đề tài nào, giáo viên cũng sẽ thực hiện các bước cơ bản sau: - Bước 1: Giáo viên ra đề tài và gợi ý tài liệu: + Giáo viên (GV) ra đề hoặc gợi ý học sinh (HS) tìm đề tài + Giáo viên có thể cung cấp tài liệu hoặc yêu cầu học sinh tự tìm kiếm tài liệu phù hợp với đề tài - Bước 2: Học sinh tự xử lí tài liệu và lập dàn ý: + GV cho HS đọc và tóm tắt tài liệu + HS lập dàn ý + GV sửa dàn ý - Bước 3: HS viết bài - Bước 4: HS trình bày trước lớp GV và HS góp ý để hoàn thiện bài viết - Bước 5: HS sửa bài và gửi bài cho giáo viên và các học sinh trong lớp 3. Phương pháp đối với từng loại đề tài cụ thể: Phương pháp hướng dẫn HS nghiên cứu một đề tài khi GV chưa dạy: * Đối với một đề tài đã học ít nhiều ở các lớp dưới: Mục đích của việc nghiên cứu loại đề tài này: Dù đã được học ở các lớp dưới nhưng đối với một HS chuyên Ngữ văn khối THPT, kiến thức phải được đào sâu, nâng cao. Vì vậy, việc tìm hiểu các đề tài này sẽ giúp các em củng cố và nâng cao thêm những kiến thức đã có và tiếp cận với những đơn vị kiến thức khác. Ví dụ: Đối với HS lớp 10 chuyên Ngữ văn, GV có thể ra những đề tài như: ♦ Vẻ đẹp của tâm hồn người Việt qua ca dao ♦ Tư tưởng nhân đạo, nhân văn trong văn học Việt Nam trung đại... Phương pháp: Về cơ bản, GV áp dụng các bước như trong mục II.2, tuy nhiên GV cần lưu ý những điểm sau: Đề tài GV nên ra và đặt yêu cầu kiến thức rõ ràng đối với HS tránh tình trạng HS viết lại những kiến thức đã học một cách rời rạc Đề tài phải có tính kế thừa những kiến thức học sinh đã học Việc trình bày bài và sửa có thể đưa vào trong những buổi GV bồi dưỡng các chuyên đề có liên quan * Đối với một đề tài hoàn toàn mới: Mục đích của việc nghiên cứu loại đề tài này: Giúp học sinh tập làm quen với việc tự tìm hiểu những đơn vị kiến thức mới mẻ, kích thích trí tò mò và đam mê khám phá của HS Ví dụ: ♦ Thi pháp ca dao ♦ Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du trong Truyện Kiều Phương pháp: Về cơ bản, GV áp dụng các bước như trong mục II.2, tuy nhiên GV cần lưu ý những điểm sau: Đề tài do GV ra phải vừa sức, không quá khó. Có thể chỉ dừng lại ở việc tóm tắt các tài liệu đã có và nêu ra quan điểm của mình GV phải cung cấp thư mục tài liệu và hướng dẫn HS trong quá trình đọc và xử lí tài liệu GV phải gợi ý dàn ý một cách cụ thể Bài viết của HS phải được sửa cẩn thận dưới sự hướng dẫn của GV Phương pháp hướng dẫn HS nghiên cứu một đề tài khi GV đã dạy: Mục đích của việc nghiên cứu loại đề tài này: Nhằm giúp HS củng cố những kiến thức GV vừa giảng dạy trên lớp, đồng thời giúp HS biết cách áp dụng những kiến thức GV đã dạy vào thực tiễn của quá trình tìm hiểu khám phá văn học. Loại đề tài này cũng phát huy khả năng sáng tạo của HS. Ví dụ: ♦ Sau khi GV dạy chuyên đề “Thi pháp ca dao”, GV cho HS chọn tìm hiểu một văn bản ca dao dưới góc nhìn thi pháp. ♦ Sau khi dạy chuyên đề “Mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết Việt Nam” GV gợi ý cho HS tìm hiểu dấu ấn của văn học dân gian trong tác phẩm của một tác giả văn học Việt Nam hiện đại. Phương pháp: Về cơ bản, GV áp dụng các bước như trong mục II.2, tuy nhiên GV cần lưu ý những điểm sau: Đề tài GV chỉ gợi ý, HS nên tự chọn đề tài, GV chọn lọc Đề tài phải mới, không lặp lại nguyên những gì GV đã dạy Nên khuyến khích những ý kiến mới mẻ III. Một số yêu cầu khi áp dụng phương pháp hướng dẫn học sinh chuyên Ngữ văn làm quen với công tác nghiên cứu khoa học: Để phương pháp này đạt được hiệu quả như mong muốn, GV cần phải lưu ý một số vấn đề sau: Việc đọc và viết bài HS thực hiện ở nhà, GV chỉ dành ít thời gian để HS trình bày và lớp góp ý kiến. GV phải chủ động lên kế hoạch hợp lí để HS thực hiện một cách có chất lượng, tránh qua loa. Vì vậy, GV phải chuẩn bị nội dung giảng dạy trước khi lên lớp khá lâu để cung cấp cho HS những đề tài thực sự cần thiết, hay, có khả năng củng cố kiến thức và khơi gợi được hứng thú học tập của HS và HS đủ thời gian để thực hiện đề tài. Giao việc đúng đối tượng: GV có thể giao cho 1 HS hoặc nhóm HS (khoảng 2-3 HS) GV phải nắm được khả năng và sở trường của HS để giao đề tài phù hợp GV nên giao việc cho tất cả để HS tránh tâm lí mình thua kém bạn bè Để thực hiện phương pháp này, GV phải mất khá nhiều thời gian và công sức để đọc tài liệu. GV phải bao quát một khối lượng tài liệu tương đối rộng để cung cấp cho HS một thư mục tài liệu phù hợp, vừa sức. Đồng thời GV phải đọc nhiều tài liệu để tránh việc HS sao chép kiến thức của người khác mà không biết chọn lọc, vận dụng. GV phải theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện và đánh giá một cách khách quan kết quả bài làm của HS, lấy điểm vào cột kiểm tra thường xuyên. GV chú ý khích lệ những ý kiến mới mẻ, sáng tạo của HS. Những bài làm tốt, GV yêu cầu HS photo cho các bạn cùng lớp để dùng như một tư liệu tham khảo. KẾT LUẬN Nghiên cứu khoa học là một việc làm mới và khó đối với học sinh THPT dù là học sinh chuyên, vì vậy việc áp dụng phương pháp dạy học bằng việc hướng dẫn học sinh làm quen với nghiên cứu khoa học sẽ gặp nhiều khó khăn. Với thời gian áp dụng còn rất ngắn (chưa hết 1 năm học), chúng tôi chưa có điều kiện thẩm định một cách rõ ràng hiệu quả của phương pháp này. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng tại lớp chuyên Ngữ văn Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn, chúng tôi nhận thấy phương pháp này gây được hứng thú học tập ở các em, đặc biệt là những em thật sự mong muốn khám phá cái hay cái đẹp của văn chương. Hơn nữa, đây chỉ là một phương pháp dạy học mang tính hỗ trợ nhưng đã góp phần tích cực hóa vai trò của HS trong quá trình học tập, HS chủ động tiếp cận nguồn tri thức mênh mông của nhân loại và sẽ trở thành những người lao động có trình độ chuyên môn cao, năng động, sáng tạo trong công tác. PHỤ LỤC (Trích dẫn một số bài viết của học sinh) BI KỊCH CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO Đoàn Nguyễn Quỳnh Trâm – 10C1 I/ Mở đầu: Ca dao là tiếng đàn muôn điệu của tâm hồn người bình dân. Bên cạnh những giai điệu tươi vui và rộn ràng, ta còn nghe vọng không ít những khúc nhạc buồn thương ai oán. Đó là nỗi lòng của những kiếp người bất hạnh, những cảnh đời trắc trở, éo le. Nổi bật hơn cả là tiếng than của người phụ nữ. Bao nhiêu tâm sự, sầu đau, phiền muộn không thể tỏ bày cùng ai, phụ nữ gửi trọn vào những câu hát than thân. Có lẽ vì vậy, ca dao than thân đã khắc họa một cách chân thực và đậm nét bi kịch của những thân phận đàn bà trong xã hội ngày xưa. Đến với ca dao, ta bắt gặp vô vàn những nỗi đau của người phụ nữ, trong đó có lẽ bi kịch thân phận, bi kịch lỡ duyên và bi kịch hôn nhân là những nỗi đau nhức nhối và dai dẳng nhất. II/ Nội dung: 1. Bi kịch thân phận: Trong xã hội phong kiến, dưới cái bóng của chế độ nam quyền, người phụ nữ luôn bị coi thường. Đàn bà, con gái chỉ đảm nhận vai trò của một người mẹ, người vợ, suốt ngày quẩn quanh nơi xó bếp, đồng ruộng với công việc nội trợ, đồng áng. Thế nhưng, người phụ nữ ý thức rất rõ giá trị thực sự của mình, giá trị tiềm tàng nằm ẩn trong vẻ đẹp hình thể lẫn vẻ đẹp tâm hồn. Những hình ảnh ví von “tấm lụa đào”, “giếng giữa đàng”, “củ ấu gai” mà ta hay bắt gặp trong ca dao chính là biểu tượng cho những vẻ đẹp ấy. Họ mềm mại, tươi mát, quý giá, sáng trong như những viên ngọc quý của cuộc đời. Lẽ ra những con người như thế phải được xã hội đề cao, nâng niu và trân trọng. Thế nhưng, không biết bao nhiêu cô gái đã phải khóc trong ai oán : “Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.” hay “Thân em như giếng giữa đàng Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân”. hay “Thân em như cột đình chung Tay dơ cũng quẹt, tay phung cũng chùi.” Vừa tự hào với đời, người phụ nữ lại ngay lập tức phải trở về với thực tại, nơi mà những giá trị chân, thiện, mĩ của họ chỉ còn là ảo ảnh, hư không. Công thức ngôn từ “thân em như” gợi cảm giác yếu đuối, mong manh. Người phụ nữ bị đặt lên bàn cân của người sở hữu và được đánh giá, xem xét dựa trên giá trị sử dụng như những món hàng, vật dụng tầm thường khác. Cuộc đời bị đẩy đưa một cách vô định ngoài tầm tay với của họ. Còn nỗi đau nào hơn nỗi đau không làm chủ được số phận của mình ? Bất an, vô định, người phụ nữ gửi trọn những đau đớn ấy vào câu ca tiếng hát làm thành chất bi có tính đặc trưng trong nội dung của ca dao than thân. 2. Bi kịch lỡ duyên a) Nỗi đau bị phụ tình: Không chỉ trong quan hệ xã hội người phụ nữ mới bị xem thường mà ngay trong tình yêu, hôn nhân, vị trí và giá trị của họ cũng không được đề cao. Người con gái luôn tự xem mình là “bến nước”, “cây đa” kiên định đợi chờ, thủy chung, son sắt. Cũng chính vì thế, phụ nữ dễ rơi vào cảnh bị phụ bạc, bị bỏ rơi và phụ nữ luôn là người gánh chịu mọi khổ đau khi tình yêu, hôn nhân tan vỡ. Có thể nói, ca dao đã thể hiện một cách chân thực và sâu sắc những bi kịch lỡ duyên của người phụ nữ. Người con trai vốn tính đa tình, thích “trêu hoa ghẹo nguyệt” nên chuyện: “Có mới thì nới cũ ra, Mới để trong nhà, cũ để ngoài sân” cũng là điều khó tránh khỏi. Khi những cuộc tình “đứt gánh giữa đường”, dòng nước mắt đầy xót xa của những kiếp đàn bà dang dở cứ nối tiếp nhau chảy mãi trong ca dao. Những giọt nước mắt ấy nhỏ xuống tận sâu tâm hồn họ và lắng lại trong ca dao những dòng xúc cảm trào dâng, mãnh liệt như tiếng vỡ òa trong đau đớn : “Ngày nào anh bủng anh beo Tay cất chén thuốc tay đèo múi chanh Bây giờ anh khỏi anh lành Anh mê nhan sắc anh tình phụ tôi.” hay “Từ ngày tôi ở với anh Cha mẹ đánh mắng anh tình phụ tôi Có thịt anh tình phụ xôi Có cam phụ quýt, có người phụ ta Có quán tình phụ cây đa Ba năm quán đổ cây đa vẫn còn.” hay “Anh nói với em như rìu chém xuống đá Như rạ chém xuống đất, Như mật rót vào tai Bây giờ anh đã nghe ai Bỏ em ở chốn non đoài bơ vơ.” Nhưng lạ thay, dù bị phản bội, dù là người chịu thiệt thòi trong tình yêu, người phụ nữ vẫn không hề tỏ ra tuyệt tình, căm phẫn.. Rõ ràng là “tôi”-“anh” mà ta nghe vẫn như tiếng gọi “thiếp”- “chàng” thiết tha, da diết. Rõ ràng lớp vỏ ngôn từ là “phụ tình”,”bạc tình”, “trách” mà ta vẫn có cảm giác người con gái đang cố gắng trong bất lực để níu kéo chàng trai, vẫn thấy cái tình quyến luyến, nồng thắm trong lòng họ đang cháy âm ỉ cháy trong hi vọng mong manh. Ca dao với thể thơ lục bát giàu nhạc điệu và những đặc trưng rất riêng về mặt ngôn từ không những cho thấy nỗi đau mà còn toát lên được vẻ đẹp tâm hồn, lòng vị tha và sự chung tình của phụ nữ xưa. b) Nỗi đau tình duyên bị ngăn cấm Có thể nói, chính những quan niệm xã hội khắt khe, vốn đã giam cầm người phụ nữ trong vách ngăn của nỗi mặc cảm thân phận, bây giờ lại một lần nữa đẩy tình yêu của họ đến chỗ tan vỡ không thành. Phải chăng những quan niệm cổ hủ, lạc hậu, phi lí mới thực sự là vật cản bước chân người phụ nữ trên hành trình kiếm tìm và góp nhặt hạnh phúc? Lại một lần khát khao mà không thể có được hạnh phúc nghĩa là thêm một bi kịch nữa xuất hiện trong cuộc đời người phụ nữ ngày xưa. Vì vậy, trong ca dao, ta bắt gặp không ít những cuộc tình đổ vỡ bởi những lề thói khắc khe của chế độ phong kiến. “Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi Biết rằng có được ở đời với nhau Hay là vào trước ra sau Cho cực lòng thiếp cho đau lòng chàng.” hay: “Lửa nhen mới bén duyên trầm Trách sao cha mẹ nỡ cầm duyên con.” hay: “Chanh chua quít ngọt đã từng Còn cây khế chín trên rừng chưa ăn Hay là thầy mẹ cấm ngăn Không cho đôi lứa đắp chăn cùng giường.” Mấy ai thấu hiểu được nỗi đau của những thân gái bị cha mẹ ép duyên, phải vùi lấp cả tuổi xuân trong những cuộc hôn nhân được sắp đặt trước : “Mẹ em tham thúng xôi rền Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng. Em đã bảo mẹ rằng đừng Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào Bây giờ chồng thấp vợ cao Như đôi đũa lệch so sao cho bằng .” Dẫu rằng những nỗi đau ấy không chua chát, đắng cay bằng nỗi đau bị phụ tình nhưng nó cũng đã đẩy người phụ nữ lùi xa thêm một bước nữa trên con đường đến với hạnh phúc. 3. Bi kịch hôn nhân: Cuộc đời phụ nữ đâu chỉ phải gánh chịu những bất hạnh trong tình yêu, khi đã tìm được bến đỗ của cuộc đời, cứ ngỡ rằng họ sẽ hạnh phúc, thế nhưng họ cũng phải đối mặt với vô vàn những trái ngang, nghịch cảnh. Nổi bật lên trong ca dao xưa là nỗi đau của những thân gái phải chịu kiếp “chồng chung” . Nỗi đau của những người vợ cả có lẽ không được đề cập một cách rõ nét trong ca dao, bởi ít nhất họ cũng có danh phận. Nhưng trong niềm cảm thương cho những kiếp chồng chung, thấp thoáng đâu đó ta bắt gặp những nạn nhân của thói “có mới nới cũ”. Người đời thường nói: đàn ông yêu bằng mắt. Bởi vậy, những người vợ cả thường là những kẻ yếu thế trong cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chốn tình trường. Nhưng xét cho cùng, sự phai tàn xuân sắc của họ là kết quả của những tháng năm dài hi sinh vì chồng, vì con. Ấy vậy mà đáp lại mong ước giản dị của họ là sự phụ bạc phũ phàng của những ông chồng gió trăng: “Có lá lốt tình phụ xương sông Có chùa bên Bắc, bỏ miếu bên Ðông tồi tàn.” hay “Gió đưa bụi chuối sau hè Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ Con thơ tay ẵm tay bồng Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông.” Bước ra từ những đổ vỡ ấy, những người vợ chợt nhận ra niềm vui gia đình, hạnh phúc hôn nhân mà trước đây cuộc đời đã hào phóng ban tặng cho họ thực chất chỉ là ảo tưởng xa vời. Họ lại trở về là chính họ, những con người chưa từng mảy may chạm tới được thiên đường hạnh phúc ! Nhưng đau đớn hơn cả những người vợ cả là kiếp làm lẽ. Nào ai hiểu hết những nỗi niềm không thể tỏ bày, họ chỉ biết mượn ca dao để giải tỏa những phiền muộn chất chứa trong lòng : “Thân em làm lẽ chẳng nề Đâu như chánh thất mà lê lên lên giường Tối tối chị giữ mất chồng Cho một manh chiếu nằm suông chuồng bò và còn : “Thân em làm lẽ vô duyên Mỗi ngày một trận đòn ghen tơi bời Ai ơi ở vậy cho rồi Còn hơn làm lẽ, chồng người khổ ta.” Nếu như những bi kịch thân phận hay bi kịch bị phụ tình là những bi kịch rất dễ nhận thấy ở người phụ nữ, họ dễ được cảm thông chia sẻ thì bi kịch làm lẽ có lẽ chỉ họ mới thấu hết ! Không có hạnh phúc, mất đi hạnh phúc liệu có đau hơn phải xé lẻ hạnh phúc, nhất là trong hôn nhân, nơi mà mỗi con người đều mong muốn được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, tuyệt đối ? Đọc ca dao, ta mới vỡ lẽ ra rằng cái “kiếp chồng chung”, “chồng người” lại đắng cay và khổ đau hơn bội phần cái kiếp không chồng. Ngoài những bi kịch trên, trong ca dao, ta còn bắt gặp những bi kịch khác của người phụ nữ. Đó là những cảnh đời cô đơn chiếc bóng : “Chòng chành như nón không quai Như thuyền không lái, như gái không chồng.” Hay rỉ mòn trong kiếp goá bụa: “Gió đưa cây trúc ngã quỳ Ba năm chực tiết còn gì là xuân.” Đó là những nạn nhân của tục tảo hôn : “Bữa cơm múc nước rửa râu Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm Đêm đêm dắt cụ đi nằm Than thân phận gái ôm lưng lão già Ông ơi ông buông tôi ra Kẻo người ta thấy, người ta chê cười.” III/ Kết luận: Ca dao đã cho thấy cái tài của người bình dân trong việc thể hiện cái bi. Sự khéo léo ở đây là nét buồn không lộ ra trên câu chữ mà vẫn khiến cho bao trái tim người đọc phải xót xa, thương cảm. Những mảnh đời phụ nữ xưa từ khắp các nẻo đường đời đều về trong ca dao với một tiếng than chung: bất hạnh. Nhưng, qua ca dao, ta không chỉ thấy được những khoảng tối trong cuộc đời của phận đàn bà mà dường như còn thấy được tiếng nói phản kháng, đấu tranh của nhân dân được cất lên bằng một niềm tin, niềm hi vọng về một tương lai hạnh phúc. Đặng Thị My Phượng – 10C1 Ca dao có những cách rất riêng để chuyển tải những cung bậc tình cảm tinh tế, những tư tưởng đạo lí sâu sắc, thấm thía của người bình dân xưa đến với bạn đọc muôn đời. Ngôn ngữ, hình tượng ca dao có đủ sức gợi mở hay khám phá được những ngóc ngách xúc cảm chân thật, tinh tế nhất trong tâm hồn người bình dân. Nhờ đó ca dao Việt Nam gắn bó sâu sắc với đời sống tâm tư, tình cảm của con người Việt Nam. Trong xã hội phong kiến đương thời, đã có không ít lần người bình dân cất lên những tiếng nói đấu tranh, phản kháng trước những thế lực xấu xa uy hiếp đến cuộc sống của họ. Tinh thần phản kháng, đấu tranh đó của người bình dân được thể hiện khá rõ nét, đặc sắc qua kho tàng ca dao và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc muôn đời . Nhà nghiên cứu, phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã từng nhận định rằng :"Ca dao Việt Nam đã chứng tỏ rằng trong quần chúng nhân dân , tư tưởng chống đối giai cấp phong kiến là tư tưởng chủ đạo " Điều này cho thấy rằng tiếng nói đấu tranh, phản kháng là một trong những chủ đề lớn của kho tàng ca dao dân tộc, nó phản ánh được quy luật tự nhiên của tiến trình phát triển rằng ở đâu có áp bức, bóc lột thì ở đó có phản kháng ,đấu tranh. Trong chùm ca dao phản kháng ,đấu tranh ; đối tượng được đề cập đến nhiều nhất chính là xã hội phong kiến đương thời -xã hội tồn tại bộ máy chính quyền lạc hậu . Đại diện tiêu biểu cho xã hội phong kiến xưa chính là hệ thống quan lại thối nát. Quan lại là hình bóng của chế độ thống trị, là tiêu biểu cho những lớp người quý tộc, phong lưu và là nguồn gốc của những áp bức bất công, những tệ đoan trong xã hội. Bọn quan lại đã lợi dụng chức vị của mình để nhũng nhiễu, hạch sách dân chúng, gây biết bao khó nhọc cho con dân; cho nên giai cấp này luôn là cây đinh trong mắt người bình dân xưa. Ca dao dân tộc có nhiều hình thức chống lại chế độ phong kiến, chống lại bộ máy quan lại thối nát chỉ biết bóc lột, hạch sách dân chúng. Ca dao tập trung vạch trần bộ mặt xấu xa cùng những tội ác của bọn quan lại phong kiến. Là giai cấp trực tiếp đứng ra lo cho cuộc sống của nhân dân nhưng những tên quan lại thời ấy lại ra sức bóc lột sức lao động, tước đoạt của cải, ruộng đất của người dân và đẩy họ vào bế tắc của sự cùng khổ. Ngay trong câu ca dao quen thuộc : Con ơi nhớ lấy câu này Cướp đêm là giặc,cướp ngày là quan. cũng đã vạch trần, tố cáo một cách mạnh mẽ sự xấu xa, hèn hạ của bọn quan lại ngày xưa. Chúng ngang nhiên chiếm đoạt của cải, ruộng đất; bóc lột công sức lao động của người dân giữa ban ngày ban mặt mà không một chút do dự. Ngay trong câu hát ru ấy đã tiềm tàng một tinh thần đấu tranh, phản kháng mà người mẹ muốn răng dạy con thơ. Phải chăng người bình dân ý thức được rằng muốn được sống, được tồn tại trên mảnh đất quê hương thì họ không còn một cách nào khác là phải đứng lên đấu tranh chống lại bộ máy phong kiến mà đại diện là bọn quan lại bất lương? Dưới cái nhìn của người bình dân, quan lại chỉ là những kẻ xấu xa, tham lam, bỉ ổi và vô nhân tính. Hình ảnh những quan lại ngày xưa còn khắc hoạ rõ nét qua câu ca dao như: Ban ngày quan lớn như thần Ban đêm quan lớn tần ngần như ma. Bản chất xấu xa của bọn quan lại còn được thể hiện rõ qua những hành động hạch sách dân chúng, ép uổng, hà hiếp những thân phận phụ nữ yếu đuối trong xã hội. Ngoài áo mão, cân đai, võng lọng, thực chất quan lại dưới mắt người bình dân chỉ là những kẻ khát tình, những kẻ tầm thường trong dục vọng thấp hèn, được thể hiện đặc sắc qua những câu ca dao: Em là con gái đồng trinh, Em đi bán rượu qua dinh ông Nghè. Quan Nghè cho lính ra ve, Trăm lạy quan Nghè tôi đã có con, Có con thì mặc có con, Thắt lưng cho giòn mà lấy chồng quan. hay như bài ca dao: Em là con gái cửa dinh, Qua đình cụ lớn, cụ rình cụ nom Của em chẳng để ai dòm Cáo già ngó hết, mèo con cũng chừa . Những thân phận phụ nữ, yếu đuối bị bọn quan lại hà hiếp cũng lên tiếng phản kháng một cách mạnh mẽ và quyết liệt. Họ đã vạch trần một cách không khoan nhượng trước những điều xấu xa, bẩn thỉu mà bọn quan lại đã làm. Chính những áp bức đó đã thổi bùng lên trong những người phụ nữ xưa nói riêng và toàn thể người bình dân nói chung một ngọn lửa đấu tranh hừng hực cháy và luôn tồn tại kiên trì, bền bỉ theo thời gian. Không chỉ dừng lại ở việc vạch trần bộ mặt và tội ác xấu xa của bọn quan lại phong kiến, người bình dân còn thể hiện tinh thần phản kháng, đấu tranh của mình qua thái độ hạ nhục, khinh thường, chế giễu bọn chúng .Thái độ ấy thể hiện rõ nét qua những câu ca dao châm biếm, hài hước có khả năng đả kích mạnh mẽ như : Đồn rằng quan tướng có danh, Cỡi ngựa một mình chẳng giám vịn ai. Ban khen rằng: ấy mới tài ! Ban cho cái áo với hai đồng tiền Đánh giặc thì chạy trước tiên Xông vào trận tiền cởi khố giặc ra Giặc sợ giặc chạy về nhà Trở ra gọi mẹ mổ gà khao quân. Bức chân dung một ông quan hư danh, hèn mọn, vô dụng đã hiện lên đầy sống động qua nghệ thuật trào lộng trong bài ca dao. Chính những lời châm biếm, đả kích đó đã hạ thấp uy quyền, danh dự của bọn quan lại và khắc hoạ đậm nét sự nhút nhát, vô dụng đến mức đáng bị chê cười của chúng. Nếu giai cấp quan lại là những kẻ liêm chính, không mua quan bán tước, không lợi dụng chức vị để bóc lột, tham nhũng thì người dân đâu dám giễu cợt, châm biếm như vậy. Đứng trước những áp bức, bóc lột nặng nề của vua quan, người dân không còn con đường nào khác để lựa chọn ngoài việc phải chống đối, đấu tranh mạnh mẽ hơn nữa để có thể bảo vệ những quyền lợi, tài sản của cá nhân. Người dân đã hoàn toàn mất niềm tin vào giai cấp thống trị và họ buộc phải đoàn kết bên nhau để lật đổ bọn quan lại, cường hào ác bá : Người trên ở chẳng chính ngôi Khiến cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào Người trên ở chẳng được cao Khiến cho kẻ dưới lộn nhào lên trên Nên ra trên kính dưới nhường Chẳng nên đạp hắt bên đường mà đi . Mọi quyền lợi trong xã hội đều nhường trước tiên cho giai cấp quan lại và bọn địa chủ,quý tộc. Khi những giai cấp quyền uy được phép tước đoạt mọi thứ như vậy thì làm sao còn bảo vệ được công lí, làm đẹp được lòng dân. Bởi vậy người bình dân luôn tỏ thái độ bất mãn, chống đối : Quan có cần, nhưng dân chưa vội Quan có vội, quan lội quan sang Sang chơi thì cứ mà sang, Đừng bắt dọn đàng mà nhọc lòng dân . Chính những áp bức, bóc lột hà khắc của giai cấp thống trị mà đại diện là bọn quan lại đã đẩy cuộc sống của những người dân xưa rơi vào khốn khổ, đồng nghĩa với việc tinh thần đấu tranh của họ ngày càng dâng cao mạnh mẽ. Cuộc sống càng khó khăn, vất vả bao nhiêu; họ càng đấu tranh mạnh mẽ, kiên quyết bấy nhiêu . Dưới chế độ phong kiến đương thời, không chỉ bộ máy quan lại mới là đối tượng đấu tranh chính của người dân mà họ còn lên tiếng đấu tranh trước những lễ giáo hà khắc, những phong tục lạc hậu đã bóp nghẹt quyền sống, quyền tự do của con người mà đại diện là người phụ nữ. Xã hội phong kiến Việt Nam luôn tồn tại những lễ giáo hà khắc, những hủ tục khiến người phụ nữ không làm chủ được số phận của mình. Họ không được quyền tự do trong tình yêu đôi lứa và hôn nhân bị sắp đặt theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy ”.Chính những quan niệm này đã đẩy người phụ nữ đến bi kịch lỡ duyên và những bi kịch trong đời sống hôn nhân .Trong ca dao cũng có không ít những câu thể hiện được tinh thần đấu tranh của người phụ nữ trước sư ràng buộc của lễ giáo phong kiến, song đa phần đều được thể hiện khá yếu đuối, mờ nhạt dưới những câu hát than thân như: Tiếc thay nước đục mà đựng chậu thau Cái mâm chữ triện đựng rau thài lài Tiếc người da trắng tóc dài, Đương xuân cha mẹ ép nài lấy lão sáu mươi. hay như lời hát hài hước nhưng đầy xót xa về thân phận những người cô gái trẻ phải chịu cảnh tảo hôn: Chồng lên tám, vợ mười ba, Ngồi rồi nu nống nu na đỡ buồn Mười tám vợ đã lớn khôn Nu na nu nống chồng còn mười ba. Mẹ ơi con phải gỡ ra Chồng con nu nống nu na suốt ngày Đêm nằm khắc khoải canh chày!... Những bài ca dao trên với ngôn từ hài hước là thế nhưng lại mang một âm hưởng đượm buồn sâu lắng. Đó là nỗi buồn chung cho thân phận của những cô gái trẻ ngày xưa. Họ gởi gắm những tâm tư, nỗi niềm riêng của mình trong những bài ca dao đồng thời qua đó muốn thể hiện được ý chí đấu tranh, phản kháng đối với những thế lực phong kiến vô hình đã đẩy họ vào đau khổ. Chính những cùm gông phong kiến đã khoá chặt tuổi xuân của người con gái, đẩy họ xuống vực sâu cuả đau khổ, tuyệt vọng . Nhưng những người phụ nữ xưa không chỉ biết đau khổ, buồn tủi mà họ còn biết đấu tranh, biết ước mơ, biết hy vọng về một tương lai hạnh phúc hơn . Cũng chính bởi những lề thói, lễ giáo hà khắc của xã hội phong kiến đã khiến những đôi lứa yêu nhau không thể đến được với nhau. Họ phải rời xa nhau khi mối tình nồng vừa chớm nở, để lại trong lòng đôi trai gái bao xót xa đau đớn khôn nguôi. Trong ca dao, hình ảnh cha mẹ chính là đại diện tiêu biểu cho những lề thói xã hội đã ăn sâu vào trong tư tưởng của người xưa và là cản trở lớn nhất mà hầu hết những tình yêu thời ấy không thể vượt qua được. Đau đớn, bức xúc trước những lễ giáo xã hội, những đôi trai gái lên tiếng đấu tranh, phản kháng để khát khao tìm thấy hạnh phúc: Đũa vàng động xuống mâm son Đôi ta đứt ruột vì cơn hội này Đôi ta chẳng đặng sum vầy Cho nên nhúm bịnh mình này ốm nhom . hay: Trách cha, trách mẹ nhà chàng Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau Thực vàng chẳng phải thau đâu Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng. Và dù nếu những đôi trai gái có đến được với nhau thì xã hội phong kiến cũng đưa đẩy họ đến những đau khổ, trắc trở trong cuộc sống gia đình. Đó là những cuộc chia li bởi những người đàn ông, người chồng, người cha trong gia đình bị bắt ép phải đi lính chỉ để phục vụ cho những mưu đồ bất chính của nhà nước phong kiến. Họ uất ức, căm phẫn và cũng lên tiếng đấu tranh mạnh mẽ, đặc biệt là những người vợ trong gia đình: Chém cha cái giặc, chết hoang Làm cho thiếp phải gánh lương theo chồng Gánh từ xứ Bắc xứ Đông Đã gánh theo chồng lại gánh theo con . hay: Giá vua bắt lính đàn bà Để em đi đỡ cho anh vài bốn năm Bởi vua bắt lính đàn ông Tiền lưng gạo bị sắm trong nhà này. Ngoài chế độ phong kiến; tinh thần phản kháng, đấu tranh của người bình dân còn được thể hiện qua thái độ châm biếm, đả kích các tệ nạn và các thói hư tật xấu tồn tại trong xã hội đương thời như bói toán, bài bạc, rượu chè,...Trong khi các quan lại lao vào các hoạt động ăn chơi xa xỉ thì trong xã hội lại hình thành một bộ phận người dân sa vào các tệ nạn, các thói hư tật xấu. Chính điều này đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức người bình dân và dấy lên trong lòng họ ý chí đấu tranh để loại bỏ, triệt tiêu những tệ nạn và thói hư tật xấu đó. Đây không phải là đấu tranh vì lợi ích của một cá nhân hay một tầng lớp, giai cấp nào mà là vì sự tồn tại của cả xã hội. Bởi con người là động lực phát triển xã hội và xã hội chỉ thực sự phát triển khi có những con người thực hoàn thiện về nhân cách. Người bình dân đã gởi gắm tinh thần đấu tranh của mình qua những câu ca dao như : Phù thuỷ, thầy bói, lái trâu Nghe ba thầy ấy đầu lâu không còn. hay: Tiền buộc dải yếm bo bo, Trao cho thầy bói đâm lo vào mình Tử vi xem số cho người Số thầy thì để cho ruồi nó bâu. Ngoài tệ nạn xem bói, mê tín dị đoan; ca dao còn nêu lên tinh thần đấu tranh chống nạn cờ bạc, rượu chè đã đẩy cuộc sống của họ đến cảnh thiếu thốn như : Chồng đánh bạc, vợ đánh bài Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng ! Cờ bạc là bác thằng bần Cửa nhà bán hết tra thân vào cùm. hay: Cờ bạc nó đã khinh anh Áo quần bán hết một manh chẳng còn Gió đông nam chui vào đống rạ Hở mông ra cho quạ nó lôi Anh còn cờ bạc nữa thôi ? Trong xã hội còn tồn tại những thói hư tật xấu như thói lười biếng, tham lam, ích kỉ, khoe khoang hay thói trăng hoa... được người bình dân phản ánh một số qua ca dao. Họ đã lên án kiên quyết, gay gắt trước những thói hư tật xấu đó của người đời. Phải chăng người bình dân lên tiếng đấu tranh như vậy là để lưu giữ những nét đẹp truyền thống trong tâm hồn người Việt Nam ?... Bước sang thế kỉ XIX, thực dân Pháp đem quân sang xâm lược nước ta và thiết lập nên chế độ phong kiến nửa thực dân trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp; triều đình nhà Nguyễn yếu hèn, bạc nhược đã đầu hàng từng bước, đẩy đất nước rơi vào vòng nô lệ và cấu kết với bọn thực dân đàn áp, bóc lột nhân dân ta nặng nề. Cuộc sống người dân ngày một khốn khổ và lệ thuộc vào giai cấp thống trị . Và trong hoàn cảnh ấy, những câu ca dao nêu lên tinh thần đấu tranh chống phong kiến, thực dân của nhân dân ta ra đời mạnh mẽ. Nhân dân ta tỏ rõ sự căm phẫn, bất bình trước thái độ yếu hèn của nhà nước phong kiến đã để quê hương đất nước rơi vào tay thực dân, đẩy cuộc sống của họ vào chốn lầm than, nô lệ : Chém cha những đứa sang giàu Cậy thần cậy thế cúi đầu nịnh Tây. hay: Từ ngày Bảo đại lên ngôi Cơm chẳng đầy nồi, cuộc sống co ro. Nhưng không chỉ dừng lại ở việc đấu tranh chống nhà nước phong kiến, nhân dân ta còn lên tiếng tố cáo, phản kháng mạnh mẽ đối với chính sách cai trị tàn bạo của bọn thực dân Pháp. Bọn chúng đã đề ra những chính sách thuế má nặng nề, tìm mọi cách để bóc lột, vơ vét của cải, ruộng đất của nhân dân. Không chịu đứng yên nhìn bọn thực dân tước đoạt của cải, cướp hết ruộng đất, nhân dân đã nổi dậy chống phá chính quyền : Thóc đâu mà nộp cho Tây Nó ăn cho béo nó đầy doạ ta Hỡi này các bạn nông gia! Bảo nhau đừng nộp thóc ta cho thù. hay: Ruộng ta ta cấy ta cầy Không nhường một bước cho bầy Nhật-Tây Chúng bay lảng vảng tới đây Rủ nhau gậy, cuốc đuổi ngay khỏi làng. Khi đặt chân lên đất nước ta, thực dân Pháp đã lập ra những đồn điền cao su và kêu gọi nhân dân ta đi lao động trong các khu đồn điền ấy. Ông Tây lắm bạc nhiều tiền Bỏ ra sức giấy mộ liền cu li. Nhưng thực chất là chúng lại ra sức bóc lột nặng nề công sức lao động của nhân dân ta, đẩy họ vào sự kiệt quệ, chết dần chết mòn trên từng mảnh đất cao su. Người dân không được trả lương xứng đáng đối với những công sức mà họ bỏ ra để phục vụ cho bọn thực dân. Trước sự đối đãi bất công đó, những người dân đã đoàn kết lại để tiếp tục đấu tranh: Thẻ tôi lĩnh có hai đồng Ông cai lĩnh hộ, trừ năm công hào hay: Ông cai ơi hỡi ông cai! Công tôi làm được đúng hai mươi ngày Làm sao mà đến kì này Công hai mươi ngày hụt mất hào tư. Làm việc ở những đồn điền cao su khắc nghiệt, người dân phải lao động không ngừng nghỉ, vất vả, nặng nhọc đến mức kiệt quệ sức lực và đã có rất nhiều người bỏ mạng ở nơi đây. Lỡ lầm vào đất cao su Chẳng tù thì cũng như tù chung thân Cao su đi dễ khó về, Khi đi trai tráng khi về bủng beo Cao su đi dễ khó về, Khi đi mất vợ khi về mất con Cao su xanh tốt lạ đời. Mỗi cây bón một xác người công nhân. Bọn thực dân xem cây cao su hơn cả tính mạng người dân, chúng xem rẻ những mồ hôi, nước mắt và cả xương máu mà nhân dân ta đã đổ xuống dưới từng gốc cao su .Chính điều đó đã thôi thúc họ cất lên tiếng nói đấu tranh : Cây cao su quý hơn người Mỗi khi cây bệnh cây thời nghỉ ngay ... Còn ta đau ốm gầy còm Đau không được nghỉ, chết hòm cũng không. Xã hội thực dân nửa phong kiến đã để lại không biết bao nhiêu những nỗi thống khổ trong lòng người bình dân xưa. Chính những đau khổ trong cuộc sống ấy đã nhen nhóm trong lòng họ ý thức phản kháng, đấu tranh và đó là cơ sở ra đời của những bài ca dao trên. Tinh thần phản kháng, đấu tranh của người bình dân xưa được thể hiện khá rõ nét trong kho tàng ca dao dân tộc. Đó cũng là một trong số những mảng nội dung lớn của ca daoViệt Nam. Tuy mỗi bài ca dao có những cách riêng để thể hiện ý thức đấu tranh, với những mức độ khác nhau nhưng tất cả những tiếng nói đấu tranh đó đều cho thấy được những vẻ đẹp trong ý thức và tâm hồn của người bình dân xưa. Họ ý thức được giá trị của bản thân, những điều mà họ có quyền được hưởng; họ nhận thức được đâu là những điều xấu cần phải cần phải loại trừ trong xã hội để có thể xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Khi người dân ý thức được sức mạnh đấu tranh của họ thì không một thế lực nào có thể dập tắt nổi. Chúng ta không chỉ đọc được ở những bài ca dao ấy tinh thần phản kháng, đấu tranh mà tiềm tàng trong đó là cả những ước mơ, hi vọng của người bình dân về một cuộc sống ấm no, đủ đầy và không bị các thế lực thống trị bóc lột, chà đạp. Dù ở bất cứ thời đại nào hay xã hội nào thì cuộc sống của con người cũng không tránh khỏi những mâu thuẫn, xung đột giai cấp. Điều quan trọng là con người phải biết lên tiếng phản kháng,đấu tranh để bảo vệ cho những cái đúng, cái tốt và xây dựng một cuộc sống tươi đẹp hơn. Ca dao mãi là thế giới riêng để người bình dân có thể gởi gắm ý thức phản kháng, đấu tranh của mình và qua đó thể hiện những ước mơ, khát vọng được sống tự do, bình đẳng và hạnh phúc ...
File đính kèm:
- skkn_phuong_phap_huong_dan_hoc_sinh_chuyen_ngu_van_lam_quen.doc