Ôn tập Ngữ Văn Lớp 11 - Tác phẩm: Đây thôn Vĩ Dạ

docx 5 trang Mạnh Hào 19/06/2024 910
Bạn đang xem tài liệu "Ôn tập Ngữ Văn Lớp 11 - Tác phẩm: Đây thôn Vĩ Dạ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn tập Ngữ Văn Lớp 11 - Tác phẩm: Đây thôn Vĩ Dạ

Ôn tập Ngữ Văn Lớp 11 - Tác phẩm: Đây thôn Vĩ Dạ
ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN KHỐI 11
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
_Hàn Mặc Tử_
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. TÁC GIẢ
1.1. Cuộc đời
- Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh 22 tháng 9 năm 1912, mất 11 tháng 11 năm 1940. Quê ở tỉnh Quảng Bình. Ông sinh ra trong gia đình công chức theo đạo Thiên Chúa.
- Hàn Mặc Tử là người có thân phận bất hạnh. Năm 1936, ông phát hiện mình mang bệnh hiểm nghèo: bệnh phong. Ông về hẳn Quy Nhơn để chữa bệnh mà mất luôn ở đó, tại trại phong Quy Hòa. 
1.2. Sự nghiệp văn học
- Ban đầu làm thơ cổ điển lãng mạn.
- Là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ Mới.
 	- Là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn.
- Thơ Hàn Mặc Tử mang diện mạo phức tạp, bí ẩn nhưng vẫn thể hiện rất rõ tình yêu đời, yêu người và nỗi đau trần thế.
+ Hoài Thanh trong Thi Nhân Việt Nam đã nhận xét: “Từ cổ chí kim không gì kinh dị hơn. Người ta vẫn thấy rõ một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế”.
+ Chế Lan Viên nhận định: Hàn Mặc Tử là “ngôi sao chổi trên bầu trời thơ Việt Nam”.
- Các sáng tác:
+ Lệ Thanh thi tập (thể Đường luật)
+ Thơ điên (về sau đổi thành Đau thương): gồm 3 tập (Hương thơm, Mật đắng. Máu cuồng và hồn điên) được hoàn thành năm 1938.
+ Gái quê: tập thơ duy nhất được xuất bản (1936) khi thi sĩ chưa qua đời.
+ Kịch thơ: Duyên kì ngộ (1939), Quần tiên hội (1940, viết dở dang)
Ngoài ra, còn một số phóng sự, tạp văn,
2. BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ
2.1. Hoàn cảnh sáng tác
- Lúc đầu, bài thơ có tên Ở đây thôn Vĩ Dạ, in trong tập Thơ điên, sáng tác năm 1938.
- Gắn với câu chuyện về bức bưu thiếp của nàng Hoàn Thị Kim Cúc – cô gái Huế mà Hàn Mặc Tử thầm thương trộm nhớ. Nhưng Hàn Mặc Tử không hề ngỏ lời, Hoàng Cúc cũng không hề hay biết. Năm 1937, được tin Hàn bị bệnh nặng ở Quy Nhơn, Hoàng Cúc nghe lời khuyên của một người em thân thiết với Hàn Mặc Tử, đã gửi cho ông vài lời hỏi thăm viết đằng sau bức bưu ảnh chụp cảnh bến nước, con thuyền. Chính lời thăm hỏi của người xưa ấy đã khơi gợi trong thi nhân những hồi ức trong sáng về mảnh vườn thôn Vĩ, về bến sông Hương, về con người năm cũ, từ đó thoi thúc ông viết bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. 
2.2. Bố cục:
- Khổ 1: Cảnh ban mai thôn Vĩ và tình người thiết tha
- Khổ 2: Cảnh hoàng hôn thôn Vĩ và niềm đau cô lẻ, chia lìa.
- Khổ 3: Nỗi niềm thôn Vĩ.
2.3. Cảm hứng chủ đạo: Cảm hứng về nỗi đau. Đó chính là ghịch lí số phận và nghệ thuật.
II. ĐỌC – HIỂU
1. Khổ 1: Cảnh ban mai thôn Vĩ và tình người thiết tha
- Là bức tranh trong hồi ức nên tất cả những hình ảnh hiện lên với một vẻ đẹp toàn mĩ. Một kiểu “Nước non thanh tú diễm lệ”.
- Mang nặng một tình yêu đời, yêu người vừa mãnh liệt vừa sâu kín.
- Thấp thoáng đâu đó là nỗi mặc cảm, nỗi đau thân phận.
- Dù ở trong bóng tối của bệnh tật nhưng tâm hồn thi nhân như bông hoa mặt trời, luôn hướng về ánh sáng, hướng về sự sống. Điều này thể hiện rất rõ qua những câu thơ sau:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
	- “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” là câu hỏi tu từ nhiều sắc thái: lời trách nhẹ nhàng hay cũng là lời mời gọi tha thiết.
	- Cảnh thôn Vĩ hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng:
	+ Vẻ đẹp của nắng (điệp từ) hàng cau - nắng mới lên (sáng tạo nghệ thuật): gợi đúng đặc điểm của cái nắng miền Trung: nắng nhiều và chói chang, rực rỡ lúc hừng đông.
	+ Vẻ đẹp Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc (đại từ phiếm chỉ + so sánh tự nhiên độc đáo): gợi sự mượt mà, tươi tốt, đầy sức sống.
	+ Lá trúc che ngang mặt chữ điền: bóng dáng con người xuất hiện tạo nên sự hấp dẫn cho lời mời gọi. Theo quan điểm người xưa, mặt chữ điền là gương mặt người phúc hậu.
	Ò Vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên thôn Vĩ, cảnh xinh xắn, con người phúc hậu, thiên nhiên và con người hài hòa với nhau trong vẻ đẹp kín đáo dịu dàng. Đằng sau bức tranh phong cảnh là tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết và niềm băn khoăn day dứt của tác giả. Có lẽ, Hàn cũng mong muốn được trở về thăm lại chốn cũ, người xưa. Nhưng thực tế lại quá phũ phàng. 
2. Khổ 2: Cảnh hoàng hôn và niềm đau cô lẻ, chia lìa.	
- Mặc cảm chia lìa ảnh hưởng, tác động đến hình ảnh thơ với những sự vận động tạo sự li tan.
- Thi nhân tìm về với trăng như tìm về sự cứu rỗi, tìm về sự an ủi mộng mị nhưng nhận về chỉ là sự hoài nghi, vô vọng. Thơ là tiếng nói của thân phận, điều đó đúng với Hàn Mặc Tử.
- Nỗi cô đơn tuyệt vọng đó được thể hiện qua những câu thơ sau:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
+ Cảnh thôn Vĩ thật êm đềm thơ mộng, nhịp điệu khoan thai, nhẹ nhàng: Gió mây nhè nhẹ bay đi, dòng chảy lững lờ, cây cỏ khẽ đung đưa. 
+ Hình ảnh: gió – mây. Lẽ thường thì gió thổi mây bay, nhưng ở đây “gió lối gió, mây đường mây”. Điều này có vẻ phi lí nhưng trở nên hợp lí khi nhìn qua lăng kính tâm trạng. Thi hào Nguyễn Du có viết trong Kiều “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Hàn không chỉ buồn mà còn có cả đau khổ và mặc cảm thân phận. Đây chính là biểu hiện của sự chia cách. 
+ Hàng loạt các thủ pháp nghệ thuật như nhân hóa, liệt kê, đối lập, lấy động tả tỉnh được sử dụng một cách tài tình để bật lên tâm trạng có vẻ thờ ơ xa cách cuộc đời. Đối với thi nhân đó là cả một nỗi cô đơn, quạnh vắng, nỗi hụt hẫng khi mọi thứ đã góp phần đóng sầm cánh cửa thanh xuân.
+ Bến sông trăng: hình ảnh vừa lạ vừa quen thuộc gợi lên vẻ đẹp lãng mạn, nhẹ nhàng, tất cả như đang đắm chìm trong bồng bềnh mơ mộng, như thực mà cũng như ảo.
+ Câu hỏi: Có chở trăng về kịp tối nay? Đóng vai trò làm sáng lên hi vọng gặp gỡ nhưng lại thành ra mông lung, xa vời. Từ “kịp” kết hợp yếu tố chỉ thời gian “tối nay” có lẽ đã dâng lên trong tâm trí nhà thơ nỗi sợ hãi. Nó như gấp rút vội vàng mà lại vô cùng tuyệt vọng.
Ò Niềm khát khao tha thiết đợi chờ vô vọng.
3. Khổ 3: Nỗi niềm thôn Vĩ
- Bước vào địa hạt cõi mộng, ngôn ngữ mang đậm màu sắc siêu thực.
- Không gian huyền bí, mờ ảo, vô định, khó nắm bắt.
- Vang vọng câu hỏi chơi vơi nhưng không một lời đồng vọng. Tự hỏi bản thân, cuộc đời,
- Màu sắc siêu thực được thể hiện rõ nhất trong những câu thơ sau:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
+ Điệp ngữ “khách đường xa”: Có hai cách hiểu. Khách đường xa là ai? Có lẽ là một người ở phương xa đến thăm thi nhân. Hay khách đường xa chính là thi nhân trong cuộc hành trình tâm tưởng trở về thăm chốn cũ người xưa? Cho dù là cách hiểu nào thì cũng chỉ là những khát khao được giao cảm nhưng vô vọng.
+ Sắc trắng cực tả: Màu trắng ở câu thơ thứ hai có hai cách hiểu. Một số người thì cho là áo em trắng lại ở giữa nơi đầy sương khói nên áo em lẫn vào khói sương nhìn không ra. Cách hiểu thứ hai, màu trắng đến lóa mắt không thể nhìn rõ được, không thể nắm bắt. Và màu trắng ở đây phải chăng còn là sự trong sáng của một cô gái nơi vườn ngọc? 
+ Sương khói mờ nhân ảnh: Không gian bất định. Ở đây nhưng không rõ là ở đâu.
+ Câu hỏi tu từ: mang tâm trạng vừa tuyệt vọng vừa hoài nghi.
Ò Khi hoài niệm về quá khứ xa xôi hay ước vọng về những điều không thể nhà thơ càng thêm đau đớn. Điều đó chứng tỏ tình yêu tha thiết cuộc sống của một con người luôn có khát vọng yêu thương và gắn bó với cuộc đời.
Nhà thơ là người cho máu. Hạt mầm thơ của Hàn Mặc Tử đã gieo xuống vùng đất của cái chết và nỗi đau để rồi nở ra những đóa hoa thơm thật đẹp. Đóa hoa ấy hướng về ánh sáng và sự sống, đồng thời an ủi tâm hồn những người cùng khổ. Nó thầm thì với ta về những điều chân thực trong cuộc sống: mọi sự sống thật quý giá. Hãy trân trọng sự sống vì được sống đã là hạnh phúc 
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nghệ thuật: Hình ảnh biểu hiện nội tâm rất tinh tế. Mạch thơ tưởng như đứt đoạn nhưng lại hợp lí và gắn kết. Tất cả đều là nhịp thơ 4/3 có khi gấp gáp, có khi khẩn khoảng, có khi trầm lắng ưu tư. Nhà thơ thường sử dụng lớp từ cực tả để lột tả vẻ đẹp tột cùng kết hợp lớp ngôn từ tinh tế đã khắc họa nên bức tranh đẹp huyền ảo của thôn Vĩ Dạ và khát khao được trở lại dù chỉ một lần của thi nhân.
2. Giá trị nội dung: Bài thơ là một bức tranh đẹp về một miền quê của đất nước, là tiếng lòng của một cong người tha thiết yêu đời, yêu người. Đau thương chính là cảm xúc chủ đạo. Càng yêu đời tha thiết càng mặc cảm thân phận, càng khát khao yêu thương càng chới với hoài nghi. Và, có cả nỗi buồn của kẻ tuyệt vọng. Nhưng dù thế nào, người đọc vẫn tìm thấy khát vọng sống, khát khao giao hòa với đời. Tất cả được bộc lộ rõ qua lăng kính hoài niệm vô cùng trong sáng.

File đính kèm:

  • docxon_tap_ngu_van_lop_11_tac_pham_day_thon_vi_da.docx