Hướng dẫn ôn tập kiểm tra Học kì II môn Ngữ Văn Lớp 12 năm học 2019- 2020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Hướng dẫn ôn tập kiểm tra Học kì II môn Ngữ Văn Lớp 12 năm học 2019- 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hướng dẫn ôn tập kiểm tra Học kì II môn Ngữ Văn Lớp 12 năm học 2019- 2020
& VỢ CHỒNG A PHỦ - Tô Hoài A. KIẾN THỨC CƠ BẢN I. Tác giả Tô Hoài - Là nhà văn lớn, sáng tác nhiều thể loại. Số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong nền văn học Việt Nam hiện đại. - Sáng tác thiên về diễn tả những sự thật đời thường: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. - Có vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau. - Lối trần thuật rất hóm hỉnh, sinh động nhờ vốn từ vựng giàu có, phần lớn là bình dân và thông tục nhưng nhờ sử dụng đắc địa nên đầy ma lực và mang sức mạnh lay chuyển tâm tư. - Năm 1996, được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. II. Tác phẩm 1. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: - In trong tập Truyện Tây Bắc – được tặng giải nhất giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955 - Hoàn cảnh sáng tác: Trong chuyến đi thực tế cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. 2. Tóm tắt: - Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra. - Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần dần trở nên tê liệt, chỉ "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". - Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói đứng vào cột nhà. - A Phủ đánh A Sử nên nên đã bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà Thống lí. - Không may hổ vồ mất 1 con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc đến gần chết. - Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, 2 người chạy trốn đến Phiềng Sa. - Mị và A Phủ được giác ngộ, trở thành du kích 3. Đọc-hiểu văn bản # Nhân vật Mị a. Bi kịch thân phận làm dâu gạt nợ * Trước khi làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra - Là cô gái trẻ đẹp, có tài thổi sáo: “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buông Mị”, “Mị thổi sáo giỏi, Mị uốn chiếc lá trên môi,thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị” - Là cô gái ham làm, sẵn sàng lao động, không quản ngại khó khăn: “Biết cuốc nương ngô, làm ngô trả nợ thay cho bố” - Là một cô gái yêu đời, yêu c/s tự do, không ham giàu sang phú quý - Là người con hiếu thảo, tự trọng: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” * Khi về làm dâu nhà thống lí - Nguyên nhân: Vì món nợ truyền kiếp bố mẹ vay gia đình nhà thống lí Pá Tra nên Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ. Mị là con nợ đồng thời cũng là con dâu nên số phận đã trói buộc Mị đến lúc tàn đời. - Lúc đầu: Mị phản kháng quyết liệt. + “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc” + Mị tính chuyện ăn lá ngón để tìm sự giải thoát. + Vì lòng hiếu thảo nên phải nén nỗi đau riêng, quay trở lại nhà thống lí. - Những ngày làm dâu: + Bị vắt kiệt sức lao động: “ Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa mùa thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi” “ Con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày” + Chịu nỗi đau khổ về tinh thần: Mị sống với trạng thái gần như đã chết: chi tiết căn phòng “kín mít,có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” - Thái độ của Mị: + “Ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi.” + “ Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa () ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi” + “ Mỗi ngày Mị không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.” => Sống tăm tối, nhẫn nhục, đau khổ, tê liệt về tinh thần, buông xuôi theo số phận. b. Sức sống tiềm tàng của Mị @ Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân *Cảnh mùa xuân: + Mùa xuân vui tươi, tràn đầy sức sống, nhiều màu sắc: “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét tất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như những con bướm sặc sỡ”; “Đám trẻ đợi tết, chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà..” + Tiếng ai thổi sáo gọi bạn đi chơi: : “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha, bổi hổi : Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Ta không có con trai con gái Ta đi tìm người yêu Mị ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi” => Mùa xuân về ở Hồng Ngài đã có nhiều tác động tích cực đối với cuộc đời tăm tối và giá lạnh của Mị. * Tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân: - Lúc uống rượu đón xuân: “Mị lén lấy hủ rượu, cứ uống ực từng bát” -Mị như đang uống cái đắng cay của phần đời đã qua, uống cái khao khát của phần đời chưa tới. Rượu làm cơ thể và đầu óc Mị say nhưng tâm hồn đã tỉnh lại sau bao ngày câm nín, mụ mị vì bị đày đọa. - Khi nghe tiếng sáo gọi bạn: + Nhớ lại những kỉ niệm ngọt ngào của quá khứ: thổi sáo, thổi lá giỏi, “có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”;“ Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước Mị muốn đi chơi” + Mị có ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thực: muốn tự tử “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”-> Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình. + Trong đầu Mị vẫn đang rập rờn tiếng sáo: “Anh ném pao, em không bắt Em không yêu quả pao rơi rồi”. -> Tiếng sáo biểu tượng cho khát vọng tình yêu tự do đã thổi bùng lên ngọn lửa tâm hồn Mị - Những sục sôi trong tâm hồn đã thôi thúc Mị có những hành động: + “lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”: Mị muốn thắp sáng lên căn phòng vốn bấy lâu chỉ là bóng tối, thắp ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình. + “quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”: Mị muốn được đi chơi xuân, quên hẳn sự có mặt của A Sử. - Khi bị A Sử trói đứng: + “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượi còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi...”: Quên hẳn mình đang bị trói, vẫn thả hồn theo những cuộc chơi, những tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết bên tai. + “Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được...”: Khát vọng đi chơi xuân đã bị chặn đứng. + “Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi (). Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ (). Mị lúc mê lúc tỉnh”: Tô Hoài đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch: khát vọng mãnh liệt – hiện thực phũ phàng, khiến cho sức sống của Mị càng thêm mãnh liệt. => Tư tưởng của nhà văn: Sức sống của con người cho dù bị giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn âm ỉ và có cơ hội là bùng lên. @ Tâm trạng và hành động của Mị khi thấy A Phủ bị trói đứng - Lúc đầu, khi chứng kiến cảnh thấy A Phủ bị trói mấy ngày đêm: “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay”: Dấu ấn của sự tê liệt tinh thần. - Khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ: Mị thức tỉnh dần: + Nhớ lại mình, nhận ra mình và xót xa cho mình: Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị”, “Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được” + Nhớ tới cảnh người đàn bà đời trước cũng bị trói đến chết + Thương mình, thương người, nhận thức được tội ác của nhà thống lí: “Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Chúng nó thật độc ác” + Thương cảm cho A Phủ: “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét” -> Từ lạnh lùng thương cảm, dần dần Mị nhận ra nỗi đau khổ của mình và của người khác. + Mị lo sợ hốt hoảng, tưởng tượng khi A Phủ đã trốn được: “Lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy” - Nỗi sợ như tiếp thêm sức mạnh cho Mị đi đến hành động. + Liều lĩnh hành động: cắt dây mây cứu A Phủ “Mị rón rén bước lại Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây” -> Hành động bất ngờ nhưng hợp lí: Mị dám hi sinh vì cha mẹ, dám ăn lá ngón tự tử nên cũng dám cứu người. + Chạy trốn “Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi Mị cũng vụt chạy ra” -> Là hành động tất yếu: Đó là con đường giải thoát duy nhất, cứu người cũng là tự cứu mình. => Tài năng của nhà văn trong miêu tả tâm lí nhân vật: Diễn biến tâm lí tinh tế được miêu tả từ nội tâm đến hành động. => Giá trị nhân đạo sâu sắc: + Khi sức sống tiềm tàng trong con người được hồi sinh thì nó là ngọn lửa không thể dập tắt. + Nó tất yếu chuyển thành hành động phản kháng táo bạo, chống lại mọi sự chà đạp, lăng nhục để cứu cuộc đời mình. # Nhân vật A Phủ: a. Số phận đặc biệt của A Phủ: - Từ nhỏ mồ côi cha mẹ, không người thân thích, sống sót qua nạn dịch - Làm thuê, làm mướn, nghèo đến nỗi không thể lấy được vợ vì tục lệ cưới xin - 10 tuổi bị bắt đem bán đổi lấy thóc của người Thái, sau đó trốn thóat và lưu lạc đến Hồng Ngài. - Trở thành chàng trai khỏe mạnh, tháo vát, thông minh:“chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo” - Nhiều cô gái mơ ước được lấy A Phủ làm chồng: “Đứa nào được A Phủ cúng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu” - Nhưng A phủ vẫn rất nghèo, không lấy nổi vợ vì phép làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo. b. Tính cách đặc biệt của A Phủ : - Gan góc từ bé: “A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi lạc đến Hồng Ngài” - Lớn lên: dám đánh con quan, sẵn sàng trừng trị kẻ ác: “Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử (). Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp” -> Hàng loạt các động từ cho thấy sức mạnh và tính cách của A Phủ, không quan tâm đến hậu quả sẽ xảy ra. - Khi trở thành người làm công gạt nợ: + A Phủ vẫn là con người tự do: “bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”, làm tất cả mọi thứ như trước đây. + Không sợ cường quyền, kẻ ác: • Để mất bò, điềm nhiên vác nửa con bò hổ ăn dở về và nói chuyện đi bắt hổ một cách thản nhiên, điềm nhiên cãi lại thống lí Pá Tra. • Lẳng lặng đi lấy cọc và dây mây để người ta trói đứng mình. + Không sợ cái uy của bất cứ ai, không sợ cả cái chết. - Bị trói vào cột, A Phủ nhai đứt hai vòng dây mây định trốn thoát -> Tinh thần phản kháng là cơ sở cho việc giác ngộ Cách mạng nhanh chóng sau này. # Nghệ thuật - Khắc họa nhân vật: sống động và chân thực. - Miêu tả tâm lí nhân vật: sinh động, đặc sắc (diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân và đem Mị cắt dây trói cho A Phủ). - Có những phát hiện mới lạ trong phong tục, tập quán (tục cưới vợ, trình ma, đánh nhau, xử kiện, ốp đồng, đêm tình mùa xuân, cảnh uống rượu ngày tết). - Nghệ thuật kể chuyện: uyển chuyển, linh hoạt, mang phong cách truyền thống nhưng đầy sáng tạo (kể theo trình tự thời gian nhưng có đan xen hồi ức, vận dụng kĩ thuật đồng hiện của điện ảnh .). - Ngôn ngữ: giản dị, phong phú, đầy sáng tạo, mang bản sắc riêng. - Giọng điệu: trữ tình, lôi cuốn người đọc, , câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ, III. Tổng kết - Giá trị hiện thực: miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân nghèo, phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi. - Giá trị nhân đạo: thể hiện tình yêu thương, sự đổng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người dân lao động miền núi trước Cách mạng; tố cáo, lên án, phơi bày bản chất xấu xa, tàn bạo của giai thống trị; trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc; B. LUYỆN ĐỀ Đề 1: Trong bài Cảm nghĩ về truyện “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài viết: “Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt”. (Tác phẩm văn học 1945 – 1975, Tập hai, NXB Khoa học Xã hội, 1990, trang 71) Anh/chị hãy làm rõ diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (truyện ngắn“Vợ chồng A Phủ”) của Tô Hoài để làm sáng tỏ nhận xét trên. Dàn ý 1. Mở bài - Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, đoạn trích. 2. Thân bài * Mị có phẩm chất tốt đẹp nhưng bị đày đọa cả về thể xác và tinh thần + Mị là một thiếu nữ xinh đẹp, tài hoa, hồn nhiên, yêu đời; chăm chỉ làm ăn, yêu tự do, ý thức được quyền sống của mình. + Mị là giàu lòng vị tha, đức hi sinh. + Là con dâu gạt nợ, Mị bị đối xử như một nô lệ. Mị sống khổ nhục hơn cả súc vật, thường xuyên bị A Sử đánh đập tàn nhẫn. Mị sống như một tù nhân trong căn buồng chật hẹp, tối tăm. + Sống trong đau khổ, Mị gần như vô cảm “ngày càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. * Tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân - Bên trong hình ảnh “con rùa nuôi trong xó cửa” vẫn đang còn một con người khát khao tự do, hạnh phúc. Gió rét dữ dội cũng không ngăn được sức xuân tươi trẻ trong thiên nhiên và con người, tất cả đánh thức tâm hồn Mị. - Mị uống rượu để quên hiện tại đau khổ. Mị nhớ về thời con gái, Mị sống lại với niềm say mê yêu đời của tuổi trẻ. - Tiếng sáo (biểu tượng của tình yêu và khát vọng tự do) từ chỗ là hiện tượng ngoại cảnh đã đi sâu vào tâm tư Mị. - Mị thắp đèn như thắp lên ánh sáng chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối. Mị chuẩn bị đi chơi nhưng bị A Sử trói lại; tuy bị trói nhưng Mị vẫn tưởng tượng và hành động như một người tự do, Mị vùng bước đi. * Khái quát nghệ thuật - Bút pháp hiện thực sắc sảo, nghệ thuật phân tích tâm lí tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị. - Có áp bức, có đấu tranh; Mị chính là điển hình sinh động cho sức sống tiềm tàng, sức vươn lên mạnh mẽ của con người từ trong hoàn cảnh tăm tối hướng tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do. 3. Kết bài - Đánh giá chung về nhân vật Mị: cuộc đời Mị có ý nghĩa tiêu biểu cho kiếp sống khốn khổ của người dân miền núi dưới ách thống trị của các thế lực phong kiến và thực dân . Nhưng có áp bức có đấu tranh, nhân vật Mị chính là điển hình sinh động cho sức sống tiềm tàng, sức vươn lên mạnh mẽ của con người từ trong hoàn cảnh tăm tối, hướng tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do. & VỢ NHẶT - Kim Lân A. KIẾN THỨC CƠ BẢN I. Tác giả: Kim Lân ( 1920-2007) - Là cây bút chuyên viết truyện ngắn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân đồng bằng Bắc bộ bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. II.Tác phẩm Xuất xứ: Rút trong tập “ Con chó xấu xí” ( 1962) Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết” Xóm ngụ cư”. Hoàn cảnh sáng tác: Được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này. * Tóm tắt: Trong lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu điều trong nạn đói, vào một buổi chiều tà, Tràng- một người nông dân nghèo, luống tuổi, thô kệch, lại dở hơi, ở xóm ngụ cư - dẫn về nhà một người phụ nữ - người vợ nhặt. Tràng gặp người vợ nhặt đang trong hoàn cảnh đói rách cùng đường. Với một câu nói đùa và mời ăn bốn bát bánh đúc, Tràng được người phụ nữ này ưng thuận theo anh về nhà. Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu trong tâm trạng buồn vui, lo âu, hi vọng khó tách bạch nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình. Đêm tân hôn của họ diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới. Sáng hôm sau, Bà cụ Tứ và cô dâu mới xăm xắn dọn dẹp, quét tước trong ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm với cái nhà của mình và thấy mình nên người. Trông người vợ đúng là một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như lần đầu gặp nhau. Cụ Tứ hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng và một nồi chè cám. Qua lời kể của người vợ, Tràng hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phất phới. Ý nghĩa nhan đề : Nhan đề “ Vợ nhặt” thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm. “ Nhặt” đi với những thứ không ra gì. Thân phận của con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể “ nhặt” ở bất cứ đâu, bất kì lúc nào. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng “ nhặt” vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh. => Vừa thể hiện sự thê thảm của con người trong nạn đói 1945, vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng, sức mạnh hướng tới cuộc sống, tổ ấm, niềm tin của con người trong hoàn cảnh khốn cùng. 4. Tình huống truyện: - Tràng là nhân vật có ngoại hình xấu. Lời ăn tiếng nói của Tràng cũng cộc cằn, thô kệch như chính ngoại hình của anh ta. Gia đình của Tràng rất khó khăn, lại là dân ngụ cư. Nguy cơ “ ế vợ” đã rõ. Đã vậy lại gặp cái đói khủng khiếp, cái chết luôn luôn đeo bám. Trong lúc không một ai ( kể cả Tràng) nghĩ đến chuyện vợ con thì đột nhiên Tràng có vợ. Trong hoàn cảnh đó, Tràng “ nhặt” được vợ là nhặt thêm một miếng ăn cũng đồng thời là nhặt thêm tai họa cho mình, đẩy mình đến gần hơn với cái chết. Vì vậy, tình huống éo le này là đầu mối cho sự phát triển của truyện, tác động đến tâm trạng, hành động của các nhân vật và thể hiện chủ đề của truyện. 5 . Diễn biến tâm trạng của các nhân vật. a) Nhân vật Tràng - Có vẻ ngoài thô kệch, xấu xí, thân phận nghèo hèn, - Nhưng có tấm lòng hào hiệp, nhân hậu: sẵn lòng cho người đàn bà xa lạ một bữa ăn giữa lúc nạn đói, sau đó đưa về đùm bọc, cưu mang: + Lúc đầu Tràng cũng có chút phân vân, lo lắng: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bồng.” + Nhưng rồi, sau một cái “tặc lưỡi”, Tràng quyết định đánh đổi tất cả để có được người vợ, có được hạnh phúc. -> Bên ngoài là sự liều lĩnh, nông nổi, nhưng bên trong chính là sự khao khát hạnh phúc lứa đôi. Quyết định có vẻ giản đơn nhưng chứa đựng tình thương đối với người gặp cảnh khốn cùng. - Trên đường về: + Tràng không như mọi ngày mà "phởn phơ" khác thường, "cái mặt cứ vênh vênh tự đắc với mình". + Trong lòng lâng lâng khó tả: “hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh” - Buổi sáng đầu tiên có vợ: + Tràng cảm nhận có một cái gì mới mẻ: “ Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra” + Tràng biến đổi hẳn: “ Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, “ Bây giờ hắn mới nên người, hắn thấy có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này” - Tràng biết hướng tới một cuộc sống tương lai tốt đẹp hơn: “ Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” => Những con người đói khát gần kề cái chết vẫn khao khát hạnh phúc gia đình, vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau và luôn có niềm tin vào tương lai. b) Người vợ nhặt. - Là cô gái không tên, không gia đình, quê hương, bị cái đói đẩy ra lề đường: có số phận nhỏ nhoi, đáng thương. - Thị theo Tràng sau lời nói nửa đùa nửa thật để chạy trốn cái đói. - Cái đói đã làm thị trở nên chao chát, đanh đá, liều lĩnh, đánh mất sĩ diện, sự e thẹn, bản chất dịu dàng: gợi ý để được ăn: “cắm đầu ăn một chặp bốn bả bánh đúc chẳng truyện trò gì”. - Nhưng vẫn là người phụ nữ có tư cách: + Trên đường theo Tràng về, cái vẻ "cong cớn" biến mất, chỉ còn người phụ nữ xấu hổ, ngượng ngừng và cũng đầy nữ tính: “ Thị cắp hẳn cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn” Khi nhận thấy những cái nhìn tò mò của người xung quanh, “thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước níu cả vào chân kia” + Thị ra mắt mẹ chồng trong tư thế khép nép, chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường” và tâm trạng lo âu, băn khoăn, hồi hộp. - Thị đã tìm thấy được sự đầm ấm của gia đình nên hoàn toàn thay đổi: trở thành một người vợ đảm đang, người con dâu ngoan khi tham gia công việc nhà chồng một cách tự nguyện, chăm chỉ. - Chính chị cũng thắp lên niềm tin và hi vọng của mọi người khi kể chuyện ở Bắc Giang, Thái Nguyên phá kho thóc Nhật chia cho người đói. => Góp phần tô đậm hiện thực nạn đói và đặc biệt là giá trị nhân đạo của tác phẩm(dù trong hoàn cảnh nào, người phụ nữ vẫn khát khao một mái ấm gia đình hạnh phúc). c. Bà cụ Tứ: - Một bà lão già nua, ốm yếu, lưng khòng vì tuổi tác. - Tâm trạng bà cụ Tứ: + Khi nghe tiếng reo, nhận thấy thái độ vồn vã khác thường của con: phấp phỏng, biết có điều bất thường đang chờ đợi. + Đến giữa sân nhà, “bà lão đứng sững lại, càng ngạc nhiên hơn”, đặt ra hàng loạt câu hỏi: " Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Ai thế nhỉ?” + Bà lập cập bước vào nhà, càng ngạc nhiên hơn khi nghe tiếng người đàn bà xa lạ chào mình bằng u. + Sau lời giãi bày của Tràng, bà cúi đầu nín lặng, không nói và hiểu ra. Trong lòng chất chứa biết bao suy nghĩ: “ Bà lão hiểu rồivừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình” -> Buồn tủi khi nghĩ đến thân phận của con phải lấy vợ nhặt. “ Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng đói khát này không.” -> Lo vì đói, vợ chồng nó có sống qua nổi cái nạn đói này ko. + Thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới lấy đến con trai mình mà không tính đến nghi lễ cưới: “ Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới đến lấy con mình. Mà con mình mới có vợ được " + Tủi vì chưa hoàn thành bổn phận người mẹ lo vợ cho con trai. Mừng cho con trai mình có được vợ nhưng không giấu nỗi lo lắng khi nghĩ đến tương lai của con: “ Thôi thì bổn phận bà là mẹ.chứ biết thế nào mà lo cho hết được” + Nén vào lòng tất cả, bà dang tay đón người đàn bà xa lạ làm con dâu mình: " Ừ, thôi thì các con phải duyên, phải số với nhau, u cũng mừng lòng". + Từ tốn căn dặn nàng dâu mới, bà an ủi động viên, gieo vào lòng con dâu niềm tin: " Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra mà ông giời cho khá .. Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời". + Tuy vậy, bà vẫn không sao thoát khỏi sự ngao ngán khi nghĩ đến ông lão, đứa con gái út để xót thương, lo lắng cho cảnh ngộ của các con: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?” + Sáng hôm sau, bà cảm thấy “nhẹ nhỏm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Cùng với nàng dâu, bà thu dọn, quét tước nhà cửa, ý thức được bổn phận và trách nhiệm của mình. + Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới: . Bữa cơm ngày đói thật thảm hại nhưng “cả nhà ăn rất ngon lành” . Bà toàn nói đến chuyện tương lai, chuyện vui, chuyện làm ăn với con dâu : "khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có đàn gà cho xem". . Tìm mọi cách để nhen nhóm niềm tin, niềm hi vọng cho các con. => Bà cụ Tứ: một người mẹ nghèo khổ, rất mực thương con; một người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung và giàu lòng vị tha; một con người lạc quan, có niềm tin vào tương lai, hạnh phúc tươi sáng. 6. Vài nét nghệ thuật - Cách kể chuyện tự nhiên, lôi cuốn, hấp dẫn. - Nghệ thuật tạo tình huống đầy tính sáng tạo. - Dựng cảnh chân thật, gây ấn tượng: cảnh chết đói, cảnh bữa cơm ngày đói, - Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế nhưng bộc lộ tự nhiên, chân thật. - Ngôn ngữ nhuần nhị, tự nhiên. III. Tổng kết. -Truyện thể hiện được thảm cảnh của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945. Đặc biệt thể hiện được tấm lòng nhân ái, sức sống kì diệu của con người ngay trên bờ vực của cái chết vẫn hướng về sự sống và khát khao tổ ấm gia đình. - Vợ nhặt tạo được một tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, đối thoại sinh động. B. LUYỆN ĐỀ ĐỀ 1. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt của Kim Lân, từ đó nêu lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của TP. Gợi ý trả lời: I. Mở bài - Giới thiệu tác giả, tác phẩm: + Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với “đất”, với “người”, “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn. + Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, trong đó có Vợ nhặt của Kim Lân - Vợ nhặt xây dựng tình huống truyện độc đáo. - Qua tình huống truyện, tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. II. Thân bài 1. Bối cảnh xây dựng tình huống truyện - Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết. - Cái chết hiện hình trong tác phẩm tạo nên một không khí ảm đạm, thê lương. Những người sống luôn bị cái chết đe dọa. 2. Tình huống nhặt được vợ của nhân vật Tràng. ** Tình huống truyện - Ở Tràng hội tụ nhiều yếu tố khiến nguy cơ “ế” vợ: + Ngoại hình: xấu, thô. + Tính tình: có phần không bình thường, ăn nói cộc cằn, thô lỗ + Gia cảnh: nhà nghèo, dân ngụ cư, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già. + Khi cái chết đang cận kề lại “nhặt “ được vợ, có vợ theo. - Diễn biến của tình huống truyện. + Trên đường thị theo Tràng về nhà -> người dân xóm ngụ cư ngạc nhiên, Tràng vui mừng, phấn khởi. Thị ngượng ngùng, e thẹn + Về đến nhà: Thị vừa lo lắng vừa tủi cực. Bà cụ Tứ ngạc nhiên, lo mừng lẫn lộn, bản thân Tràng cũng rất ngạc nhiên, ngỡ ngàng + Buổi sáng đầu tiên: Tràng “êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”, “ việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Thị dọn dẹp nhà cửa, không còn vẻ chao chát, chỏng lỏn ->một người đàn bà hiền lành đúng mực, biết cảm thông chia sẻ ** Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo - Giá trị hiện thực + Tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói . Cái đói dồn đuổi con người. . Cái đói bóp méo cả nhân cách. . Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp. + Vợ nhặt có sức tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít. - Giá trị nhân đạo: Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật. + Tràng rất trân trọng người “vợ nhặt” của mình. + Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người “vợ nhặt” + Tình yêu thương con của bà cụ Tứ. + Con người luôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai: III. Kết bài - Khẳng định tài năng nhà văn qua việc XD tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn. - Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của TP. ĐỀ 2. Cảm nhận về nhân vật thị trong truyện ngắn “Vợ nhặt” (Kim Lân). 1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật thị. 2. Thân bài * Lai lịch - xuất thân: 5 không: không tên (thị, ả, người đàn bà), không nhà, không gia đình, không quê hương, không của cải (nghèo đói). * Ngoại hình: Gầy yếu, xanh xao “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “áo quần tả tơi như tổ đĩa” * Phẩm chất, tính cách: hai mặt đối lập. - Trơ trẽn, thiếu lòng tự trọng: + Trong lần đầu tiên gặp Tràng, nghe câu hò vu vơ của Tràng “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì” thị cong cớn, vùng dậy, chạy theo Tràng. + Lần thứ hai gặp Tràng, thị sưng sỉa, không hề ý tứ, ngượng ngùng mà “đôi mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên ngồi sà xuống ăn thật”. - Khao khát hạnh phúc - mái ấm gia đình: + Trên đường về nhà, trước sự trêu ghẹo của mọi người -> e thẹn, rón rén. + Khi về tới nhà, thị ngại ngùng, ngồi mớm vào mép giường, chào hỏi mẹ Tràng lễ phép + Buổi sáng đầu tiên ở nhà Tràng: . Thị dọn dẹp nhà cửa . Không còn vẻ chao chát, chỏng lỏn . Một người đàn bà hiền lành đúng mực, biết cảm thông chia sẻ - Đánh giá chung: + Thị là nạn nhân của nạn đói, vì nạn đói đánh mất hết ý thức, nhân phẩm của một người phụ nữ. + Khi được sống trong sự che chở của gia đình, những phẩm chất tiêu biểu của một người phụ nữ Việt được bộc lộ: đảm đang, cảm thông, chia sẻ, * Nghệ thuật: khai thác nhân vật qua những cử chỉ, hành động -> tính cách, phẩm chất của nhân vật được bộc lộ. 3. Kết bài: Đánh giá khái quát về nhân vật thị (người vợ nhặt) & CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA - Nguyễn Minh Châu – A. KIẾN THỨC CƠ BẢN I. Tác giả - Nguyễn Minh Châu (1930-1989) được coi là nhà văn mở đường tinh anh của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. II. Tác phẩm 1. Xuất xứ và vị trí tác phẩm - “Chiếc thuyền ngoài xa” viết năm 1983- Tác phẩm nằm trong xu hướng chung của văn học thời kì đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và số phận con người trong cuộc sống đời thường. * Tóm tắt: Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng Nguyên đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng phải tìm chụp bổ sung một cảnh biển buổi sáng có sương mù. Kết hợp đi thăm Đẩu-người bạn chiến đấu năm xưa giờ đang là chánh án toà án huyện- Phùng đi đến môt vùng biển miền Trung, đây từng là nơi anh đã chiến đấu thời đánh Mĩ. Phùng đã "phục kích mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh nào. Sau gần một tuần suy nghĩ, tìm kiếm, anh quyết định chụp cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh. Phùng vô cùng mãn nguyện vì đã chụp dược một bức ảnh nghệ thuật toàn bích. Nhưng thật bất ngờ, từ chiếc thuyền thật đẹp ấy, lại bước xuống một đôi vợ chồng nhà chài thô kệch, rồi lão đàn ông dùng chiếc thắt lưng lính nguỵ thẳng tay quật vợ trong khi người vợ cam chịu, không hé răng, không né tránh. Phùng chưa kịp xông ra ngăn cản thì thằng Phác - con họ - đã lao tới giật chiếc thắt lưng, quất vào người cha để bênh mẹ. Cặp vợ chồng lại lặng lẽ trở lại thuyền. Biết Phùng đã chứng kiến sự tàn bạo của cha mình, thằng Phác đâm ra căm ghét anh. Ba hôm sau, cũng trong làn sương sớm, Phùng lại chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ, và cảnh cô chị gái tước con dao găm mà thằng em định dùng làm vũ khí để bảo vệ mẹ. Không thể nén chịu thêm được nữa, Phùng xông ra buộc lão phải chấm dứt hành động vũ phu, độc ác và bị lão đánh trả để tự vệ. Phùng bị thương và được đưa về trạm y tế của toà án huyện để điều trị Người đàn bà được mời đến và chánh án Đẩu thuyết phục chị ly hôn với người chồng vũ phu, độc ác. Nhưng cả Đẩu lẫn Phùng đều ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước sự lựa chọn dứt khoát của người đàn bà này: kiên quyết không chịu ly hôn. Theo chị, người chồng trước đây là một thanh niên cục tính nhưng hiền lành. Chỉ vì cuộc sống quá quẫn bách nên đánh vợ để giải toả nỗi uất ức, bực dọc của mình. Vả lại, gia đình họ cũng có lúc vui vẻ, nhất là lúc nhìn đàn con được ăn no. Hai người cố thuyết phục nhưng người đàn bà vẫn không hề thay đổi ý kiến. Cuối cùng họ đã hiểu ra người đàn bà ấy dù có bị đánh đập tàn bạo đến mấy vẫn cần có người chồng, cần một người đàn ông sức vóc trên thuyền để có thể ra khơi kiếm sống và nuôi đàn con đông đúc. Câu chuyện thương tâm của người đàn bà nhà chài đã khiến Phùng đi từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến cảm thông và thấm thía: Không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận mọi hiện tượng của cuộc đời. 2. Ý nghĩa nhan đề và tình huống truyện a. Ý nghĩa nhan đề: - Biểu tượng cho cuộc đời và cách nhìn cuộc đời ở bề nổi và cái nhìn ở bề sâu, tầng ngầm của cuộc sống. - Quan hệ giữa nghệ thuật chân chính và cuộc đời. b.Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh + Thứ nhất: .Một cảnh “đắt” trời cho- một cảnh tượng tuyệt đẹp mà thiên nhiên, cuộc sống ban tặng cho con người. Đó là hình ảnh chiếc thuyền lưới vó ẩn hiện trong biển sớm mờ sương có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào, “từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. .Với người nghệ sĩ, khung cảnh đó chứa đựng “chân lí của sự toàn thiện”, làm dấy lên trong Phùng những xúc cảm thẩm mĩ, khiến tâm hồn anh như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi. Cái đẹp đã thanh lọc được tâm hồn con người. + Thứ hai: Một cảnh tượng phi thẩm mĩ: một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một gã đàn ông to lớn, dữ dằn, phi nhân tính. Gã đàn ông đánh đập người vợ một cách thô bạo; đứa con vì thương mẹ đã đánh cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố... ->một cảnh tượng hoàn toàn trái ngược, giống như một trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng “ngơ ngác” không tin vào mắt mình. Anh kinh ngạc, sững sờ, chết lặng bởi cái xấu, cái ác lại hiện hữu ngay trước mắt, ngay sau cái đẹp kì diệu kia. =>Qua hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn muốn phát biểu: Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà luôn chứa đựng nhiều nghịch lí. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, mâu thuẫn. Chính vì thế, con người, nhất là người nghệ sĩ, không nên vội đánh giá con người, sự vật, hiện tượng ở dáng vẻ bên ngoài mà phải phát hiện ra bản chất thực sau vẻ ngoài ấy. c. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện Đó là câu chuyện về cuộc đời nhiều bí ẩn và éo le của một người đàn bà hàng chài nghèo khổ, lam lũ - Người đàn bà đáng thương: + Ngoài 40 tuổi, thô kệch, rỗ mặt, “khuôn mặt mệt mỏi” à Gợi ấn tượng về một cuộc đời nghèo khổ, lam lũ. + Bị chồng đánh đập “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng vẫn cam chịu “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn” à coi đó là lẽ đương nhiên, sẵn sàng chịu đựng tất cả - Người đàn bà đã từ chối lời đề nghị và sự giúp đỡ của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng: van nài toà “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” - Người phụ nữ ấy giải thích: + “Các chú đâu có phải là người làm ăn cho nên các chú đâu có hiểu được”, “ như thế nào là nỗi vất vả của người đà bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông” à Nhận thức về cuộc sống trên biển: nghề biển không thể thiếu đàn ông, gã đàn ông ấy là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời đi biển của chị. + “ đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng ...không thể sống cho mình” à Tình thương con vô bờ + Cũng có những lúc: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” , “trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ” à Trong đau khổ triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi + “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc húng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn” à Cảm thông với người chồng. => Nhân vật có sự đối lập giữa vẻ bên ngoài và tâm hồn bên trong + Người đàn bà thất học nhưng rất hiểu cuộc đời: hiểu thiên chức làm mẹ, hiểu nỗi khốn khổ và sự bế tắc của người chồng. + Giàu đức hy sinh, giàu lòng vị tha, nhân hậu : chắt chiu hạnh phúc đời thường, nhìn đời một cách sâu sắc + Thấp thoáng vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ VN trong quá khứ Quan niệm của nhà văn: Qua câu chuyện về cuộc đời người đàn bà hàng chài và cách ứng xử của các nhân vật, nhà văn muốn gửi đến người đọc thông điệp: cuộc sống con người không đơn giản, người nghệ sĩ không thể dễ dãi, giản đơn khi nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của đời sống, đừng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc, hiện tượng trong các mối quan hệ đa diện, nhiều chiều. d. Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy” + Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, nghệ sĩ Phùng vẫn thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”- đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu tượng của nghệ thuật. + Nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”- đó hiện thân của những lam lũ, khốn khổ, là sự thật cuộc đời vẫn buộc những con người có lương tri phải trăn trở. => Qua tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy”, Nguyễn Minh Châu thể hiện những suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: Nghệ thuật chân chính không thể tách rời, tách li cuộc sống. Nghệ thuật phải gắn với cuộc đời và phải vì cuộc đời. e. Nghệ thuật + Xây dựng được một tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống; + Nhà văn lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp, làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục; + Ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách; lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa. B. LUYỆN ĐỀ Đề 1: Cảm nhận của anh (chị) về nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. 1. Mở bài: – Giới thiệu tác giả, tác phẩm – Nêu vấn đề: Đây là một tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu trong thời kì đổi mới. Tác phẩm thành công trên nhiều phương diện trong đó đáng chú ý là nghệ thuật xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài – một nhân vật đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. 2. Thân bài: * Ngoại hình - Người đàn bà hàng chài có ngoại hình thô kệch, xấu xí (trạc ngoài bốn mươi, mặt rỗ, ), gợi sự liên tưởng cho người đọc về một người đàn bà với cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như tất cả những người người đàn bà ở vùng biển * Hoàn cảnh sống – Người đàn bà vùng biển trong truyện ngắn hiện lên qua cái nhìn của Phùng – người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã tình cờ chứng kiến những bi kịch gia đình của chị. Chị không hề có tên. Tác giả chỉ gọi chị là “người đàn bà” một cách phiếm định (một dụng ý nghệ thuật của nhà văn). – Chị là một người phụ nữ lao động lam lũ ở làng vạn chài, cả nhà sống lênh đênh trên một chiếc thuyền đánh cá. – Một người phụ nữ đau khổ – nạn nhân đáng thương của sự lạc hậu đói nghèo, chị thường xuyên bị chồng đánh đập (ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng). => Nhân vật người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là hiện thân cho những mảnh đời tăm tối cơ cực vẫn còn tồn tại trong cuộc sống quanh ta. * Phẩm chất, tính cách – Chị là người mẹ thương con: + Chị lo sợ thằng Phác sẽ có những hành động nông nổi với bố, chị đã gởi con cho bố ruột mình nuôi. Không muốn con nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ, chị xin với chồng mỗi lần đánh chị thì lên bờ mà đánh khi không có mặt con. Đó cũng là một cách ứng xử rất nhân bản. + Chị nhẫn nhục chịu đựng đòn roi của chồng vì chị nghĩ đến đàn con: “Ông trời sinh ra người đàn như ở trên đất được!”. Hoá ra, chị không thể bỏ chồng vì cuộc sống trên thuyền không thể thiếu một người đàn ông trong những lúc phong ba, bão táp, các con chị phải được nuôi nấng, phải được lớn lên, – Chị là một người hiểu thấu lẽ đời, tuy ít học mà tỉnh táo và sáng suốt. + Cách xưng hô: quý toà – con + Chị đã từ chối và sẵn sàng đánh đổi mọi giá để không phải li hôn. Bởi, cho dù vũ phu, nhưng hắn vẫn là chỗ dựa quan trọng của những người đàn bà hàng chài như chị; còn chị- hạnh phúc lớn nhất của đời chị- cần có bố để nuôi dưỡng chúng. Hơn nữa, trên truyền cũng có lúc vợ chồng con cái hòa thuận, vui vẻ. Đó là câu chuyện về cuộc đời bí ẩn và éo le của người đàn bà hàng chài nghèo khổ, lam lũ... => Người phụ nữ bao dung, vị tha, giàu lòng yêu thương và đức hi sinh. *Nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nhà văn đã có dụng ý tạo nên ấn tượng cho người đọc về hình ảnh ngừơi đàn bà bằng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo kết hợp với thủ pháp đối lập giữa ngoại hình và nội tâm, giữa một số phận bất hạnh và tấm lòng nhân hậu, bao dung, thương con hơn tất cả mọi thứ trên đời. 3.Kết bài: Khái quát vấn đề. Đề 2: Anh (chị) hãy làm rõ sự biến đổi nhận thức của nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Từ đó, hãy bình luận ngắn gọn về thông điệp cuộc sống và nghệ thuật của nhà văn trong tác phẩm. 1. Mở bài – Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm. – Tác phẩm là một minh chứng tiêu biểu, thể hiện những nhận thức mới mẻ của ông trong cách nhìn hiện thực. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua tìm hiểu sự biến đổi nhận thức của hai nhân vật nghệ sĩ Phùng và Chánh án Đẩu trong tác phẩm. 2. Thân bài * Giới thiệu chung: Tuy là hai nhân vật, hai con người khác nhau – một người là nghệ sĩ, một người là chánh án toà án, nhưng hành trình biến đổi nhận thức lại giống nhau. Đều xuất phát từ những mục đích tốt đẹp và đầy thiện ý song cả hai đều ngạc nhiên, ngỡ ngàng rồi vỡ ra nhiều điều mới mẻ: cuộc đời này còn có nhiều góc khuất mà nghệ thuật cần vươn tới; còn có nhiều trái ngang mà lí thuyết sách vở chưa soi tỏ. * Nghệ sĩ Phùng: – Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời của hoá công: + Người nghệ sĩ trở nên “bối rối” và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”, tâm hồn người nghệ sĩ rung động và một cảm xúc thẩm mĩ đang dấy lên trong lòng anh. + Trong giây lát, người nghệ sĩ còn “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”-> nghệ sĩ Phùng đã cảm nhận được cái Chân, cái Thiện, cái Mĩ của cuộc đời, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi – Khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng đã chứng kiến một bức ảnh phong cảnh khác, không thơ mộng, không hài hoà, mà là sự thực trần trụi, sự thực thô bạo: + Trước hết là hai con người với những nét thô kệch bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ. + Sau đó, một cảnh tượng khủng khiếp, tàn nhẫn, không thể nào tin nổi và không thể nào chấp nhận: người chồng đánh vợ tàn nhẫn + Thằng Phác vì thương mẹ đã đánh lại cha Bức ảnh biển cả buổi sớm có sương thì đẹp như bức cổ hoạ bằng mực tàu, còn bức ảnh nhân sinh lại như một vết nhơ của cuộc sống, một nỗi sỉ nhục nhân loại. – Chứng kiến những cảnh tượng đó, anh kinh ngạc, sững sờ, chết lặng bởi cái xấu, cái ác lại hiện hữu ngay trước mắt, ngay sau cái đẹp kì diệu kia. Đến lần thứ hai, Phùng không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác,... - Tận mắt chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa người đàn bà hàng chài với chánh án Đẩu, nghe những lời trải lòng và biết được câu chuyện cuộc đời của người đàn bà -> đã giúp nghệ sĩ Phùng hiểu rõ hơn về Đẩu, về người đàn bà hàng chài và ngay cả chính mình. * Chánh án Đẩu: – Trước khi nghe câu chuyện của người đàn bà vùng biển, thái độ của anh là rất cương quyết (khuyên người vợ bỏ chồng). Anh hào hứng, say mê và tin tưởng vào giải pháp của mình. – Sau khi nghe những lời giãi bày, trong đầu “vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển” có “một cái gì mới vừa vỡ ra”, “lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ”: Anh bảo vệ luật pháp bằng sự thông hiểu sách vở nhưng trước cuộc sống, anh thành kẻ quá nông nổi, ngây thơ. Có lẽ, Đẩu bắt đầu hiểu ra rằng, muốn con người thoát ra khỏi cảnh man rợ, tăm tối, cơ cực thì cần phải có những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ, xa rời thực tiễn. * Bình luận ngắn gọn về thông điệp cuộc sống và nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm. - Khám phá bản chất cuộc sống và con người ở góc độ thế sự bằng cái nhìn đa diện, nhiều chiều; nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li cuộc sống, nghệ thuật chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời, người nghệ sĩ cần phải khám phá vào “tầng sâu” của cuộc sống và con người, tôn vinh những vẻ đẹp thực sự còn tiềm ẩn sau vẻ ngoài xấu xí, thô kệch; cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể, không thể áp dụng với mọi đối tượng - Đánh giá: là những thông điệp đúng đắn, sâu sắc về cuộc sống, về nghệ thuật của một nhà văn luôn trăn trở, tìm tòi, đổi mới về tư duy và cách viết. c. Kết bài Với sự biến đổi nhận thức của hai nhân vật Đẩu và Phùng, “Chiếc thuyền ngoài xa” một lần nữa khẳng định vẻ đẹp của văn xuôi Nguyễn minh Châu giai đoạn sau năm 1975: vẻ đẹp toát ra từ tình yêu tha thiết đối với con người và sự sống, trong đó bao hàm cả khát vọng kiếm tìm, phát hiện, tôn vinh những vẻ đẹp con người còn lẫn trong lấm láp, lam lũ thường ngày, và cả những nguy cơ tiềm ẩn của cái xấu, cái ác, & SỐ PHẬN CON NGƯỜI (Sô-lô-khốp) 1. Tác giả: - A. Sô – lô - khốp (1905 - 1984): là nhà văn Nga lỗi lạc, được xếp vào hàng các nhà văn lớn nhất thế kỉ XX 2. Tác phẩm: * Hoàn cảnh sáng tác: - Truyện được công bố lần đầu trên báo Sự thật, số ra ngày 31 – 12 – 1956 và 1 – 1 – 1957. - Truyện có ý nghĩa khá quan trọng đối với sự phát triển của văn học Xô Viết. Đây là tác phẩm đầu tiên, nhà văn tập trung thể hiện hình tượng con người bất hạnh sau chiến tranh, nhìn cuộc sống và chiến tranh toàn diện, chân thực. - Về sau, truyện được in trong tập “Truyện sông Đông”. 3. Cảm nhận nhân vật Xô – cô – lốp a. Hoàn cảnh và tâm trạng của Xô-cô-lốp sau chiến tranh và trước khi gặp bé Va-ni-a: - Bản thân anh chịu nhiều cay đắng: + Bị thương hai lần, hai năm bị đoạ đày trong trại tù binh Đức. + Sau khi thoát khỏi cảnh nô lệ tù binh, Xô-cô-lốp được biết một tin đau đớn: o Vợ và hai con gái anh đã bị bom phát xít giết hại, o Đứa con trai yêu quí của anh bị “một tên thiện xạ Đức” giết chết ngay ngày chiến thắng. à Vì độc lập và sự sống còn của nhân dân, anh đã chịu đựng những mất mát ghê gớm. - Sau chiến tranh: + Anh không còn quê, không còn nhà, không còn người thân, phải sống nhờ nhà người đồng đội cũ à Sống trong nỗi đau khổ, thất vọng và cô đơn. - Anh tìm đến chén rượu để dịu bớt nỗi đau: “Phải nói rằng tôi đã thật sự say mê cái món nguy hại ấy!” à Bị đẩy vào tình cảnh bế tắc, anh suýt rơi vào nguy cơ nghiện rượu. b. Cuộc gặp gỡ giữa Xô – cô – lốp và bé Va-ni- a: - Xô – cô – lốp: + Cảm thương cho tình cảnh của chú bé, anh lập tức quyết định nhận bé làm con nuôi. à một quyết định xuất phát từ tình yêu thương thật sự. + Khi đưa đứa con trai mới nhận về nhà, cả hai vợ chồng người bạn anh đều rất vui: “Bà chủ múc súp bắp cải vào đĩa cho nó, rồi đứng nhìn nó ăn ngấu nghiến mà nước mắt ròng ròng” o Đó là tiếng khóc thương cho hoàn cảnh tội nghiệp của chú bé; o Là cả tiếng khóc thương cho cả Xô – cô – lốp o Là tiếng khóc cảm phục trước lòng tốt của Xô - cô- lốp o Là tiếng khóc tự thương cho hoàn cảnh của bà. + Xô – cô - lốp yêu thương bé Va – ni – a rất mực: anh luôn tận tâm chăm sóc đứa con một cách vụng về nhưng rất đáng yêu à Tình thương bộc trực của người cha đau khổ và hạnh phúc. + Có bé Va – ni – a, anh thấy mình như được hồi sinh: anh thấy mọi thứ như bắt đầu “trở nên êm dịu hơn” à Chính lòng nhân ái đã giúp anh vượt qua cô đơn - Bé Va – ni – a: + Khi được Xô – cô – lốp nhận làm con, Va – ni – a vô cùng sung sướng và xúc động: + Cậu vô cùng vui vẻ, hồn nhiên, gắn bó, quyến luyến chẳng rời người bố: áp sát vào người, ôm chặt lấy cổ, áp chặt má, bố đi vắng thì “khóc suốt từ sáng đến tối” à Tình cảm giữa họ là tình cảm chân thành thắm thiết của hai con người đều phải chịu nhiều mất mát lớn lao trong chiến tranh. - Điểm nhìn của tác giả và nhân vật Xô – lô – cốp hoàn toàn trùng khớp nhau: “Cái chính ở đây là phải biết kịp thời quay mặt đi. Cái chính ở đây là đừng làm tổn thương em bé, đừng để cho em thấy những giọt nước mắt đàn ông hiếm hoi nóng bỏng lăn trên má anh” à Cần phải tổ chức cuộc sống như thế nào để trẻ em được sung sướng, hạnh phúc; phải chăm sóc cho bao đứa trẻ bất hạnh vì chiến tranh. c. Xô-cô-lốp đã vượt lên nỗi đau và sự cô đơn: -> Sô – lô – khốp là nhà văn hiện thực nghiêm khắc, ông không tô hồng cuộc sống khó khăn mà Xô-cô-lốp phải vượt qua: - Xe anh quét nhẹ phải con bò nhưng anh bị tước bằng, bị mất việc, phải đi phiêu bạt để kiếm sống. - Thể chất anh cũng dần yếu đi - Nỗi đau ám ảnh anh không dứt à Anh đã và đang gánh chịu những nỗi đau không gì bù đắp nỗi, thời gian cũng không xoa dịu được vết thương lòng. Anh đã cứng cỏi nuốt thầm giọt lệ để cho bé Va – ni – a không phỉa khóc. => Cái nhìn nhân đạo của tác giả. 4. Thái độ của người kể chuyện: - Truyện được xây dựng theo lối truyện lồng trong truyện, có hai người kể là Xô – cô – lốp và tác giả. à Người kể chuyện phải tuân theo cách nói năng, tâm tính, giọng điệu của nhân vật Xô – lô – cốp và trực tiếp bộc lộ tâm trạng. - Người kể chuyện còn trực tiếp miêu tả bối cảnh và thời gian gặp gỡ nhân vật chính, khung cảnh thiên nhiên, chân dung các nhân vật, những ấn tượng và đánh giá về các nhân vật đó. à Tác giả không che giấu tình cảm, sự xúc động trước số phận con người. - Thái độ của người kể còn bộc lộ ở đoạn trữ tình ngoại đề cuối truyện: + Trữ tình ngoại đề: là sự giãi bày cảm xúc, ấ tượng của nhà văn về những gì đã mô tả, phơi bày trước bạn đọc. à sự khâm phục và lòng tin tưởng ở tính cách Nga à báo trước những khó khăn trở ngại mà con người phải vượt qua trên con đường vươn tới tương lai, hạnh phúc. à Quan điểm của tác giả: “Nghệ sĩ không thể lạnh lùng khi sáng tạo ... khi viết, máu nóng nhà văn phải sôi lên...” => Trước số phận bi thảm, trớ trêu của con người, tác giả bộc lộ sự đồng cả và lòng nhân hậu của mình. -------------------------
File đính kèm:
- huong_dan_on_tap_kiem_tra_hoc_ki_ii_mon_ngu_van_lop_12_nam_h.doc