Bài giảng Một số kiến thức cơ bản giúp học sinh làm tốt dạng đề đọc hiểu - Ngữ văn Lớp 12

docx 14 trang Mạnh Hào 30/05/2025 170
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Một số kiến thức cơ bản giúp học sinh làm tốt dạng đề đọc hiểu - Ngữ văn Lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Một số kiến thức cơ bản giúp học sinh làm tốt dạng đề đọc hiểu - Ngữ văn Lớp 12

Bài giảng Một số kiến thức cơ bản giúp học sinh làm tốt dạng đề đọc hiểu - Ngữ văn Lớp 12
MỘT SỐ KIẾN THỨC CƠ BẢN GIÚP HỌC SINH LÀM TỐT
 DẠNG ĐỀ ĐỌC HIỂU 
Nhận diện 6 phong cách ngôn ngữ:
Phần lí thuyết chung
Phạm vi sử dụng
Đặc trưng
Ngôn ngữ
Kiểu dạng
PCNN
SINH HOẠT
Lời ăn tiếng nói hằng ngày
Tính cụ thể; Tính cá thể; Tính cảm xúc.
Khẩu ngữ, bình dị, suồng sã, địa phương
Chuyện trò, nhật kí, thư từ
hồi kí, hồi ức
PCNN 
NGHỆ THUẬT
Lĩnh vực văn chương
Tính hình tượng; Tính truyền cảm;
Tính cá thể hóa
Từ ngữ trau chuốt, chắt lọc; mang tính thông tin và thẩm mĩ
Tự sự, thơ, sân khấu
PCNN
BÁO CHÍ
Thông báo tin tức thời sự, phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng
Tính ngắn gọn; tính thời sự; tính hấp dẫn
Sử dụng từ toàn dân hay lớp từ có tính công vụ cao
Bản tin, phóng sự, tiểu phẩm
PCNN CHÍNH LUẬN
Bình luận đánh giá những sự kiện, những vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng
Tính công khai về quan điểm chính trị; Tính chặt chẽ trong diễn đạt và suy luận; Tính truyền cảm thuyết phục
Lớp từ ngữ chính trị, kiểu câu phức hợp, sử dụng nhiều biện pháp tu từ giúp lí lẽ thêm sắc bén
Tuyên ngôn,
Bình luận thời sự, Xã luận
PCNN
KHOA HỌC
Thuộc lĩnh vực nghiên cứu, học tập và phổ biến khoa học.
Tính khái quát, trừu tượng; Tính lí trí, lô gíc; Tính khách quan, phi cá thể.
Sử dụng rộng rãi lớp từ ngữ chuyên ngành khoa học
Khoa học chuyên sâu; Khoa học giáo khoa; Khoa học phổ cập
PCNN
HÀNH CHÍNH
Thuộc lĩnh vực hành chính
Tính khuôn mẫu; tính minh xác; tính công vụ
Sử dụng từ theo nghĩa đen, khước từ việc sử dụng biện pháp tu từ 
Bài tập nhận diện: Đọc các ngữ liệu sau và cho biết nó thuộc PCNN nào? Vì sao em biết?
Ngữ liệu 1:
19.5.70
Được thư mẹ mẹ của con ơi, mỗi dòng chữ, mỗi lời nói của mẹ thấm nặng yêu thương, như những dòng máu chảy về trái tim khao khát nhớ thương của con. Ôi! Có ai hiểu lòng con ao ước được về sống giữa gia đình, dù chỉ là giây lát đến mức nào không? Con vẫn hiểu điều đó từ lúc bước chân lên chiếc ôtô đưa con vào con đường bom đạn. Nhưng con vẫn ra đi vì lí tưởng. Ba năm qua, trên từng chặng đường con bước, trong muôn vàn âm thanh hỗn hợp của chiến trường, bao giờ cũng có một âm thanh dịu dàng tha thiết mà sao có một âm lượng cao hơn tất cả mọi đạn bom sấm sét vang lên trong lòng con. Đó là tiếng nói của miền Bắc yêu thương, của mẹ, của ba, của em, của tất cả. Từ hàng lim xào xạc trên đường Đại La, từ tiếng sóng sông Hồng dào dạt vỗ đến cả âm thanh hỗn tạp của cuộc sống Thủ đô vẫn vang vọng trong con không một phút nào nguôi cả. 
 (Trích Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005)
Ngữ liệu 2:
 	Ngày 9 – 3 – 1945, ở Đông Dương, phát xít Nhật quật thực dân Pháp xuống chân đài chính trị. Không đầy 24 tiếng đồng hồ, trong các thành phố lớn, thực dân Pháp đều hạ súng xin hàng. Nhiều đội quân của Pháp nhằm biên giới cắm đầu chạy. Riêng ở Cao Bằng và Bắc Cạn, một vài đội quân của Pháp định thống nhất hành động với quân giải phóng Việt Nam chống Nhật. Họ đã cùng ta tổ chức “Ủy ban Pháp – Việt chống Nhật. Nhưng không bao lâu họ cũng bỏ ta chạy sang Trung Quốc. Có thể nói là quân Pháp ở Đông Dương đã không kháng chiến và công cuộc kháng chiến ở Đông Dương là công cuộc duy nhất của nhân dân ta. []
(Trường Chinh, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, tập I. NXB Sự thật, 1976)
Ngữ liệu 3:
 “...thử nghĩ mà xem, con người không biết sợ cái gì trên đời này cả, liệu có phải là con người không? Cái gì cũng “vô úy”, cũng tỏ thái độ sắt thép, nghĩa là không biết mềm lòng trước bất cứ một cái gì, đấy là loại quỷ sứ chứ đâu phải là người! Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân dạy cho người ta hiểu rằng, muốn nên người, phải biết kính sợ ba điều này: Cái tài, cái đẹp và cái thiên tính tốt của con người (thiên lương). Vậy kẻ nào không biết sợ cái gì hết, đó là loài quỷ sứ. Loại người này, thực ra rất hiếm hoi, hay nói đúng hơn, không thể có được. Nhưng loại người sau đây thì chắc không ít: sợ rất nhiều thứ, nhất là quyền thế và đồng tiền, nhưng đối với cái tài, cái đẹp, cái thiên lương thì lại không biết sợ, thậm chí sẵn sàng lăng mạ, giầy xéo. Đấy là hạng người hèn hạ nhất, thô bỉ nhất, đồi bại nhất”
[Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB GDHN, 2006]
Ngữ liệu 4:
Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, khi như mặt trăng
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi
Và chúng tôi một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ mong ngày được hái
Tôi hoảng sợ, ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.
(“Mẹ và Quả” - Nguyễn Khoa Điềm- SGK ngữ văn 10, tập II)
Ngữ liệu 5:
Những ngày qua, cái tên Trần Thị Diệu Liên bỗng được các bạn trẻ nhắc đến nhiều hơn, với sự ngưỡng mộ và lòng cảm phục nhiệt thành dành cho nghị lực của cô gái phi thuờng này. Ai cũng biết Diệu Liên – cô gái sinh năm 1997 - cựu học sinh THPT chuyên Lê Hồng Phong, TP. HCM đã xuất sắc nhận được học bổng 7 tỷ đồng của trường Đại học danh tiếng Harvard. Nhưng điều khiến nhiều thế hệ sinh viên nể phục có lẽ vì hoàn cảnh gia đình của Liên: bạn là con của người mẹ lao công và người cha làm biển quảng cáo ở Sài Gòn.(Dẫn theo báo Vietnam Net)
Nhận diện 6 phương thức biểu đạt
Phần lí thuyết chung:
Mục đích, đặc điểm
TỰ SỰ
- Kể lại, thuật lại sự việc
- Có cốt truyện, nhân vật, sự việc có ngôi kể thích hợp
BIỂU CẢM
- Bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình về thế giới xung quanh
- Sử dụng kiểu câu cảm thán, câu hỏi tu từ và từ ngữ chỉ cảm xúc, tâm trạng
MIÊU TẢ
- Qua ngôn ngữ làm cho làm cho sự vật, hiện tượng, con người (đặc biệt là thế giới nội tâm) như đang hiện ra trước mắt
- Câu văn giàu hình ảnh
THUYẾT MINH
- Cung cấp, giới thiệu, giảng giải những tri thức về sự vật, hiện tượng
- Mang tính khách quan, trung thực, hấp dẫn
NGHỊ LUẬN
- Bàn bạc phải, trái, đúng sai nhằm bộc lộ rõ chủ kiến, thái độ của người nói, người viết.
- Dùng lập luận, lí lẽ, bằng chứng để thuyết phục người khác tin theo, làm theo
ĐIỀU HÀNH
Điều hành xã hội, cầu khiến hoặc kiến nghị
2.2. Bài tập nhận diện: Phát hiện phương thức biểu đạt được sử dụng trong các ngữ liệu sau. Cho biết phương thức nào được sử dụng chính.
Ngữ liệu 1:
[]Vỏ bưởi Phúc Trạch mỏng chứ không dày như nhiều loại bưởi khác. Cầm con dao sắc, gọt nhẹ, màu hồng đào trồi lên mịn màng như má cô gái dậy thì. Gọt sâu vào một chút nữa, cái màu hồng đào ấy càng đậm hơn, càng đằm thắm hơn. Cuối cùng, dí mũi dao lên đỉnh quả rạch dọc xuống múi bưởi hiện ra màu hồng quyến rũ. Tách ra từng múi, tép bưởi chen chúc nhau mọng lên đầy ắp hương vị hấp dẫn... Dĩ nhiên là vị của nó không cay the, không chua nhưng cũng không ngọt đậm, mà ngọt thanh. Càng ăn càng thích. Ăn nhiều không chán.[] Trước Cách mạng tháng Tám, loại quả này có đem bán ở Hồng Kông và theoViệt kiều sang Pa-ri được người Pháp ưa thích. Năm 1938 trong một cuộc thi “hoa thơm quả ngọt”, bưởi Phúc Trạch dược tặng giải thưởng và kèm theo một số tiền thưởng. Ban giám khảo xếp vào hàng “quả ngon xứ Đông Dương”.
(Bưởi Phúc Trạch; dẫn theo SGK ngữ văn 10, tập 1)
Ngữ liệu 2:
[] Nhưng trong truyện Kiều còn có bao nhiêu người khác. Có chàng Kim, con người rất mực chung tình, có Thúy Vân, cô em gái ngoan, có Hoạn Thư, người đàn bà bản lĩnh khác thường, biết điều mà cay nghiệt, có Thúc Sinh, anh chàng sợ vợ, có Từ Hải chợt hiện ra, chợt biến đi như một vì sao lạ, mỗi người một cá tính khó quên. Đối với bọn nhà chứa, ngòi bút của Nguyễn Du không tò mò, Nguyễn Du ngại bới ra những gì quá dơ dáy, Nguyễn Du chỉ ghi vội vài nét. Nhưng chỉ vài nét cũng đủ khiến cả cái xã hội ghê tởm đó sống nhơ nhúc dưới ngòi bút Nguyễn Du với cái màu da nhờn nhợt của Tú Bà, cái bộ mặt “mày râu nhẵn nhụi” của Mã Giám Sinh, cái vẻ chải chuốt dịu dàng của Sở Khanh, cái miệng thề “xoen xoét” của Bạc Bà, Bạc Hạnh.
 (Theo Hoài Thanh, SGK NV 12 tập 1, tr 34)
Ngữ liệu 3:
	Thanh lách cánh cửa gỗ để khép, nhẹ nhàng bước vào. Chàng thấy mát hẳn cả người; trên con đường lát gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vòm cây xuống nhẩy múa theo chiều gió. Một mùi lá tươi non phảng phất trong không khí. Thanh rút khăn lau mồ hôi trên trán - bên ngoài trời nắng gắt - rồi thong thả đi bên bức tường hoa thấp chạy thẳng đến đầu nhà. Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kia đều ngừng lại trên bậc cửa.
[]Chàng lặng nằm xuống giường, ruỗi chân tay, khoan khoái. Ngoài khung cửa sổ, trời xanh ngắt ánh sáng; lá cây rung động dưới làn gió nhẹ. Một thân cây vút cao lên trước mặt. Cùng một lúc, chàng lẩm bẩm: "cây hoàng lan!", mùi hương thơm thoang thoảng đưa vào. Thanh nhắm mắt ngửi hương thơm và nhớ đến cái cây ấy chàng thường hay chơi dưới gốc nhặt hoa. Ðã từ lâu lắm, ngày mới có căn nhà này, ngày cha mẹ chàng hãy còn. Rồi đến ngày một bà một cháu quấn quít nhau. Thanh ra tỉnh làm rồi đi về hàng năm, các ngày nghỉ. Bây giờ cây đã lớn.
(Lược trích từ Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn Học, Hà Nội, 1988)
Ngữ liệu 4:
8-3-69
 Đi thăm bệnh về giữa đêm khuya. Trở về phòng, nằm thao thức không ngủ được. Rừng khuya im lặng như tờ, không một tiếng chim kêu, không một tiếng lá rụng hoặc một ngọn gió nào đó khẽ rung cành cây. Nghĩ gì đấy Th. ơi ? Nghĩ gì mà đôi mắt đăm đăm nhìn qua bóng đêm. Qua ánh trăng mờ Th. thấy biết bao là viễn cảnh tươi đẹp, cả những cận cảnh êm đềm của những ngày sống giữa tình thương trên mảnh đất Đức Phổ này. Rồi cảnh chia li, cảnh đau buồn cũng đến nữa...đáng trách quá Th. ơi! Th. có nghe tiếng người thương binh khẽ rên và tiếng súng vẫn nổ xa. Chiến trường vẫn đang mùa chiến thắng. 
 ( Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005)
Nhận diện một số biện pháp tu từ
Phần lí thuyết chung:
So sánh
Đối chiếu sự vật này với sự vật khác có nét tương đồng (A là B, A như B)
Nhằm tăng sức gợi hình biểu cảm.
VD: “Cổ tay em trắng như ngà”. (Ca dao)
Nhân hóa
Cách gọi tả vật, đồ vậtbằng những từ ngữ vốn dùng cho con người 
Làm cho thế giới vật, đồ vật  trở nên gần gũi biểu thị được những suy nghĩ tình cảm của con người.
VD: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” (Hồ Chí Minh)
Ẩn dụ
Dùng tên sự vật này gọi tên sự vật hiện tượng khác dựa trên nét tương đồng
Nhằm tăng sức gợi hình gợi cảm
VD: “Thuyền ơi có nhớ bến chăng” (Ca dao)
Hoán dụ
Dùng tên sự vật này gọi tên sự vật hiện tượng khác dựa trên mối quan hệ gần gũi với nó
Nhằm tăng sức gợi hình gợi cảm
VD: “Áo chàm đưa buổi phân li” (Tố Hữu)
Phép điệp
Lặp lại từ ngữ hoặc cấu trúc ngữ pháp
Làm nối bật ý, gây cảm xúc mạnh
VD: Bài ca dao Khăn thương nhớ ai (Lớp 10, tập I)
Phép đối
Sử dụng những từ ngữ, hình ảnh, các thành phần câu, vế câu song song, cân đối trong lời nói 
Nhấn mạnh về ý, gợi liên tưởng, gợi hình ảnh sinh động, tạo nhịp điệu cho lời nói, biểu đạt cảm xúc tư tưởng
VD: “Mai cốt cách tuyết tinh thần” (Nguyễn Du)
Cường điệu hóa
Phóng đại mức độ qui mô tính chất của sự vật hiện tượng được miêu tả 
Nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng tính biểu cảm
VD: “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”(Quang Dũng)
Nói giảm nói tránh
Dùng cách diễn đạt tế nhị uyển chuyển
Tránh gây cảm giác phản cảm và tránh thô tục thiếu lịch sự; giảm bớt đau thương.
VD: Bác Dương thôi đã thôi rồi (Nguyễn Khuyến)
3.2. Bài tập nhận diện: Chỉ ra một biện pháp tu từ trong các ngữ liệu sau và nêu tác dụng.
a.
Đầu xanh có tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
b. 
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
c. 
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
(ca dao)
d.
Áo nâu cùng với áo xanh
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên.
e.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
 (Truyện Kiều – Nguyễn Du)
f.
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.
(Nguyễn Đình Thi)
g.
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng.
(Tú Xương)
h.
Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
i.
“Chúng đem bom ngàn cân
Dội lên trang giấy trắng
Mỏng như một ánh trăng ngần
Hiền như lá mọc mùa xuân”
(Trang giấy học trò – Chính Hữu)
k.
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
(Chế Lan Viên)
4.	Nhận diện các thao tác lập luận
4.1.	Phần lí thuyết chung:
Giải thích
Là dùng lí lẽ để giảng giải, cắt nghĩa một sự vật, hiện tượng, khái niệm để người khác hiểu rõ, hiểu đúng vấn đề.
Phân tích
Là cách chia nhỏ đối tượng thành nhiều yếu tố bộ phận để đi sâu xem xét một cách toàn diện về nội dung, hình thức của đối tượng.
So sánh
Làm sáng tỏ đối tượng đang nghiên cứu trong mối tương quan với đối tượng khác
Chứng minh
Dùng những bằng chứng chân thực, đã được thừa  nhận để chứng tỏ đối tượng
Bác bỏ
Là cách trao đổi, tranh luận để bác bỏ ý kiến được cho là sai
Bình luận
Bình luận là bàn bạc, nhận xét, đánh giá về một vấn đề
4.2. Bài tập nhận diện: Chỉ ra thao tác lập luận chủ yếu được sử dụng trong các ngữ liệu sau
Ngữ liệu 1
  “Cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo. Ta không háo hức cái tráng lệ, huy hoàng, không say mê cái huyền ảo, kì vĩ. Màu sắc chuộng cái dịu dàng, thanh nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô chuộng sự vừa khéo, vừa xinh, phải khoảng. Giao tiếp, ứng xử chuộng hợp tình, hợp lí, áo quần, trang sức, món ăn đều không chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng và có quy mô vừa phải”.
( Trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc – Trần Đình Hượu)
Ngữ liệu 2
 “Từ sau khi Việt Nam hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường, tiềm lực khoa học và công nghệ (KH&CN) của đất nước tăng lên đáng kể. Đầu tư từ ngân sách cho KH&CN vẫn giữ mức 2% trong hơn 10 năm qua, nhưng giá trị tuyệt đối tăng lên rất nhanh, đến thời điểm này đã tương đương khoảng 1tỷ USD/năm. Cơ sở vật chất cho KH&CN đã đạt được mức độ nhất định với hệ thống gần 600 viện nghiên cứu và trung tâm nghiên cứu của Nhà nước, hơn 1.000 tổ chức KH&CN của các thành phần kinh tế khác, 3 khu công nghệ cao quốc gia ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đã bắt đầu có sản phẩm đạt kết quả tốt. Việt Nam cũng có cơ sở hạ tầng thông tin tốt trong khu vực ASEAN  (kết nối thông tin với mạng Á- Âu,  mạng VinaREN thông qua TEIN2,  TEIN4,”
(Khoa học công nghệ Việt Nam trong buổi hội nhập, Mai Hà, Ánh Tuyết
– Theo Báo Hà Nội mới, ngày 16/5/2014)
Ngữ liệu 3
 “ Nói tới sách là nói tới trí khôn của loài người, nó là kết tinh thành tựu văn minh mà hàng bao thế hệ tích lũy truyền lại cho mai sau. Sách đưa đến cho người đọc những hiểu biết mới mẻ về thế giới xung quanh, về vũ trụ bao la, về những đất nước và những dân tộc xa xôi.
            Những quyển sách khoa học có thể giúp người đọc khám phá ra vũ trụ vô tận với những qui luật của nó, hiểu được trái đất tròn trên mình nó có bao nhiêu đất nước  khác nhau với những thiên nhiên khác nhau. Những quyển sách xã hội lại giúp ta hiểu biết về đời sống con người trên các phần đất khác nhau đó với những đặc điểm về kinh tế, lịch sử, văn hóa, những truyền thống, những khát vọng.
 Sách, đặc biệt là những cuốn sách văn học giúp ta hiểu biết về đời sống bên trong tâm hồn của con người, qua các thời kì khác nhau, những niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ, những khát vọng và đấu tranh của họ. Sách còn giúp người đọc phát hiện ra chính mình, hiểu rõ mình là ai giữa vũ trụ bao la này, hiểu mỗi người có mối quan hệ như thế nào với người khác, với tất cả mọi người trong cộng đồng dân tộc và cộng đồng nhân loại này. Sách giúp cho người đọc hiểu được đâu là hạnh phúc, đâu là nỗi khổ của con người và phải làm gì để sống cho đúng và đi tới một cuộc đời thật sự.  
 ( Bàn về việc đọc sách – Nguồn Internet)
Ngữ liệu 4
 “ Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị. Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Bất cứ người An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên khước từ niềm hi vọng giải phóng giống nòi. [] Vì thế, đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ chối sự tự do của mình...”
(Nguyễn An Ninh, Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức
Theo SGK Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục, 2014, tr. 90)
Ngữ liệu 5
 “Ai cũng biết Hàn Quốc phát triển kinh tế khá nhanh, vào loại “con rồng nhỏ” có quan hệ khá chặt chẽ với các nước phương Tây, một nền kinh tế thị trường nhộn nhịp, có quan hệ quốc tế rộng rãi. Khắp nơi đều có quảng cáo, nhưng không bao giờ quảng cáo thương mại được đặt ở những nơi công sở, hội trường lớn, danh lam thắng cảnh. Chữ nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh, nếu có thì viết nhỏ đặt dười chữ Triều Tiên to hơn ở phía trên. Đi đâu. nhìn đâu cũng thấy nổi bật những bảng hiệu chữ Triều Tiên. Trong khi đó thì ở một vài thành phố của ta nhìn vào đâu cũng thấy tiếng Anh, có bảng hiệu của các cơ sở của ta hẳn hoi mà chữ nước ngoài lại lớn hơn cả chữ Việt, có lúc ngỡ ngàng tưởng như mình lạc sang một nước khác”.  
 (Chữ ta - Hữu Thọ)
5. Một số đề đọc hiểu phỏng theo đề minh họa năm 2017 (3 điểm)
Đề 1:
Em hãy đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi nêu dưới:
Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, khi như mặt trăng
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi.
Và chúng tôi một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ mong ngày được hái
Tôi hoảng sợ, ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.
(“Mẹ và Quả” - Nguyễn Khoa Điềm- Sách giáo khoa ngữ văn 10, tập II)
Câu 1: Bài thơ trên chủ yếu sử dụng phương thức biểu đạt nào?
Câu 2: Nêu nội dung chính của bài thơ?
Câu 3: Xác định một biện pháp tu từ được tác giả sử dụng trong hai câu thơ sau và nêu tác dụng nghệ thuật của biện pháp tu từ đó:
 “Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
  Còn những bí và bầu thì lớn xuống ”
Câu 4: Đọc bài thơ, câu thơ nào khiến em tâm đắc nhất, vì sao?
Đề 2:
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Người đàn bà nào dắt đứa nhỏ đi trên đường kia ?
Khuôn mặt trẻ đẹp chim vào những miền xa nào..
Đứa bé đang lẫm chẫm muôn chạy lên, hai chân nó cứ ném về phía trước, bàn tay hoa hoa một điệu múa kì lạ.
Và cái miệng líu lo không thành lời, hát một bài hát chưa từng có.
Ai biết đâu, đứa bé bước còn chưa vững lại chính là nơi dựa cho người đàn bà kia sống. 
Người chiến sĩ nào đỡ bà cụ trên đường kia? 
Đôi mắt anh có cái ánh riêng của đôi mắt đã nhiều lần nhìn vào cái chết. Bà cụ lưng còng tựa trên cánh tay anh bước tìmg bước run rẩy. Trên khuôn mặt già nua, không biết bao nhiêu nếp nhăn đan vào nhau, mỗi nếp nhăn chứa đựng bao nỗi cực nhọc gắng gỏi một đời.
Ai biết đâu, bà cụ bước không còn vững lại chính là nơi dựa cho người chiến sĩ kia đi qua những thử thách.
(Nơi dựa - Nguyễn Đình Thi, Tia nắng, NXB Văn học, Hà Nội, 1983)
Câu 1: Nêu nội dung chính của văn bản trên
Câu 2: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên 
Câu 3: Hãy chỉ ra nghịch lí trong hai câu in đậm của văn bản.
Câu 4: Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên
Đề 3:
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
 [] Văn hóa - đó có phải là sự phát triển nội tại bên trong một con người hay không? Tất nhiên rồi. Đó có phải là cách ứng xử của anh ta với người khác không? Nhất định là phải. Đó có phải là khả năng hiểu người khác không? Tôi cho là thế. Đó có phải là khả năng làm cho người khác hiểu mình không? Tôi cho là như vậy. Văn hóa nghĩa là tất cả những cái đó. Một người không thể hiểu được quan điểm của người khác tức là trong chừng mực nào đó anh ta có hạn chế về trí tuệ và văn hóa
[] Một trí tuệ có văn hóa, có cội nguồn từ chính nó, cần phải có những cánh cửa mở rộng. Nó cần có khả năng hiểu được đầy đủ quan điểm của người khác, mặc dù không phải bao giờ cũng đồng ý với quan điểm đó. Vấn đề đồng ý chỉ nảy sinh khi anh ta đã hiểu được sự việc. Nếu không, đó chỉ là sự cự tuyệt mù quáng, quyết không thể là cách tiếp cận có văn hóa đối với bất cứ vấn đề gì
 (Gi. Nê-ru,theo Nhân Dân chủ nhật,tháng 12-1977)
Câu 1: Theo tác giả, khái niệm văn hóa được hiểu như thế nào?
Câu 2: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên 
Câu 3: Nêu nội dung chính của văn bản trên.
Câu 4: Theo anh chị, vì sao tác giả cho rằng “Một người không thể hiểu được quan điểm của người khác tức là trong chừng mực nào đó anh ta có hạn chế về trí tuệ và văn hóa”.
Gv: Phạm Thị Thúy

File đính kèm:

  • docxbai_giang_mot_so_kien_thuc_co_ban_giup_hoc_sinh_lam_tot_dang.docx